Một số vấn đề về nội luật hoá quy định của điều ước quốc tế trong xây dựng pháp luật hình sự góp phần thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW trong giai đoạn hiện nay

Bài viết phân tích một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế trong xây dựng pháp luật hình sự tại Việt Nam thời gian qua. Trên cơ sở đó, đưa ra một số phương hướng xây dựng pháp luật hình sự Việt Nam theo quy định của các điều ước quốc tế dựa trên tinh thần việc nội luật hóa vừa phải đáp ứng được nghĩa vụ của quốc gia thành viên với cộng đồng quốc tế, đồng thời vẫn giữ vững nguyên tắc độc lập, chủ quyền và đặc thù của hệ thống pháp luật quốc gia.
 
1-1760064841.jpg

1. Đặt vấn đề

Theo luật quốc tế, điều ước quốc tế là văn bản thỏa thuận được ký kết giữa các chủ thể của luật pháp quốc tế (quốc gia và tổ chức quốc tế) và được điều chỉnh bằng luật quốc tế, bất kể tên gọi của văn bản thỏa thuận đó là gì. Ngày 09/4/2016, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Điều ước quốc tế. Tại Điều 2 của Luật quy định: “Điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác” . Về lý thuyết, luật pháp quốc tế và luật pháp quốc gia là hai hệ thống pháp luật được áp dụng trên hai phạm vi khác nhau. Khi trở thành thành viên của điều ước quốc tế, một quốc gia sẽ phải xem xét áp dụng những quy định của điều ước quốc tế đó như thế nào trong phạm vi quốc gia mình. Nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế về phòng chống tội phạm là phương thức, là mục đích để thực thi các điều ước quốc tế ở Việt Nam nói chung, pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng. Bài viết này tập trung làm rõ cơ sở quá trình nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế trong pháp luật hình sự Việt Nam.

Hợp tác quốc tế nói chung, hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói riêng là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Sự ra đời của Hiến pháp 2013 với việc lần đầu tiên Nhà nước ta Hiến định việc tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế mà Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, đã thể hiện rõ mục tiêu xây dựng một bản Hiến pháp của thời kỳ hội nhập và phát triển đất nước với chính sách đối ngoại rộng mở. Hiến định nghĩa vụ tuân thủ điều ước quốc tế trong Hiến pháp là minh chứng khẳng định mạnh mẽ nhất, có giá trị pháp lý cao nhất với các nước trên thế giới rằng Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia tôn trọng luật quốc tế, hành xử đúng luật quốc tế và thực hiện các mối quan hệ trên cơ sở luật quốc tế. Đồng thời, với cam kết này, các quốc gia, các tổ chức quốc tế sẽ tin tưởng hơn trong việc thiết lập và thực hiện các quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học - kỹ thuật... với Việt Nam. Như vậy, quy định này của Hiến pháp năm 2013 là một sự thay đổi có tính đột phá trong chính sách đối ngoại nói chung và nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề nội luật hóa các quy định của điều ước quốc tế trong xây dựng pháp luật hình sự nói riêng trong bối cảnh tình hình hiện nay.

2. Cơ sở nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế trong xây dựng pháp luật hình sự

a. Cơ sở pháp lý cho việc nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế trên phạm vi toàn cầu

Để tạo khuôn khổ pháp lý cho việc kí kết, phê chuẩn, thực thi các điều ước quốc tế trên phạm vi toàn cầu, Công ước Viên năm 1969 đã chỉ rõ:

Tính đến vai trò cơ bản của các điều ước trong lịch sử quan hệ quốc tế;

Công nhận tầm quan trọng ngày càng tăng của các điều ước là nguồn của pháp luật quốc tế và là phương tiện để phát triển sự hợp tác hòa bình giữa các nước, không tính đến các chế độ Hiến pháp và xã hội khác nhau của các quốc gia...” .

Công ước cũng chỉ ra “Việc một quốc gia đồng ý chịu sự ràng buộc của một điều ước có thể biểu thị bằng việc ký, trao đổi các văn kiện của điều ước phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập hoặc bằng mọi cách khác được thỏa thuận” .

Như vậy, Công ước Viên chính là Điều ước quốc tế đa phương tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các chủ thể của luật quốc tế hiện đại trong việc kí kết, phê chuẩn, thực thi các điều ước quốc tế.

Nhằm đảm bảo sự phù hợp với Hiến chương của Liên hợp quốc, hầu hết các điều ước quốc tế cũng đưa ra nghĩa vụ pháp lý nội luật cho các thành viên. Nghĩa vụ pháp lý được thể hiện dưới dạng quy định bắt buộc hoặc quy định tùy nghi. Trong đó, đối với quy định có tính chất bắt buộc, các thành viên phải thực thi bằng biện pháp lập pháp, hành pháp, tư pháp phù hợp. Đối với quy định tùy nghi, các thành viên có thể thực thi hoặc không thực thi, biện pháp cụ thể được thực thi tùy thuộc vào khả năng, điều kiện, truyền thống pháp lý của mỗi thành viên. Nghiên cứu cho thấy, trong lĩnh vực tư pháp hình sự, các công ước quốc tế đều đưa ra nghĩa vụ hình sự hóa mà các quốc gia thành viên phải thực hiện hoặc lựa chọn để thực hiện. Chẳng hạn:

Công ước Chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đặt ra nghĩa vụ tội phạm hóa bốn hành vi: Tham gia vào nhóm tội phạm có tổ chức (Điều 5); hợp pháp hoá tài sản do phạm tội mà có (Điều 6); tham nhũng trong lĩnh vực công (Điều 8); và cản trở tư pháp (Điều 23).

Công ước Chống tham nhũng đặt ra nghĩa vụ hình sự hóa hành vi hối lộ công chức quốc gia (Điều 15); hối lộ công chức nước ngoài hoặc của tổ chức quốc tế công (Điều 16); tham ô, biển thủ hoặc các dạng chiếm đoạt tài sản khác bởi công chức (Điều 17); lợi dụng ảnh hưởng để trục lợi (Điều 18); lạm dụng chức năng (Điều 19); làm giàu bất hợp pháp (Điều 20); hối lộ trong khu vực tư (Điều 21); biển thủ tài sản trong khu vực tư (Điều 22); tẩy rửa tiền và tài sản do phạm tội mà có (Điều 23); che giấu tài sản (Điều 24); cản trở hoạt động tư pháp (Điều 25)...

Như vậy, từ phương diện pháp lý quốc tế, cơ sở pháp lý cho các quốc gia trong việc nội luật hóa các công ước của Liên hợp quốc là Công ước Viên năm 1969 và từng công ước cụ thể mà các quốc gia kí kết, phê chuẩn. Đối với mỗi quốc gia, việc nội luật hóa còn dựa vào quan điểm, đường lối của đảng cầm quyền, các văn bản pháp lý và nhu cầu thực tiễn của mỗi nước.

2-1760064681.jpg

Ảnh minh hoạ

b. Cơ sở cho việc nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế tại Việt Nam

Về phương diện chính trị - pháp lý, việc chủ động tham gia đàm phán, kí kết, phê chuẩn và nội luật hóa các điều ước quốc tế là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, đã chỉ rõ “Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức...”; “Phổ biến rộng rãi và tổ chức thực hiện tốt các Công ước quốc tế, Hiệp định tương trợ tư pháp và các Hiệp định hợp tác phòng, chống tội phạm mà Nhà nước ta đã kí kết hoặc tham gia...”. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tiếp tục khẳng định “Tổ chức thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia,...”. Trong nội dung phần “Nhiệm vụ, giải pháp”, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, xác định rõ “tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế”.

Ngày 30/4/2025, Nghị quyết số 66-NQ/TW về Đổi mới công tác xây dựng và thực thi pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, đã xác định một trong những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đó là “Nâng cao hiệu quả công tác hợp tác quốc tế, pháp luật quốc tế”, trong đó khẳng định “tham gia tích cực vào việc xây dựng thể chế và pháp luật quốc tế: tận dụng hiệu quả, linh hoạt các lợi thế từ cam kết của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Xử lý tốt các vấn đề pháp lý quốc tế phát sinh, nhất là tranh chấp đầu tư, thương mại quốc tế nhằm kịp thời bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước Việt Nam”.

Quán triệt quan điểm của Đảng về việc thực hiện các cam kết, điều ước quốc tế, Hiến pháp năm 2013, Điều 12 quy định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế ...; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên...”. Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 của Việt Nam quy định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đồng thời có quyền đòi hỏi thành viên khác cũng phải tuân thủ điều ước quốc tế đó. Luật Điều ước quốc tế năm 2016 cũng chỉ rõ về Nguyên tắc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, là: (1) Không trái với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (2) Tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi và những nguyên tắc cơ bản khác của pháp luật quốc tế; (3) Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, phù hợp với đường lối đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (4) Tuân thủ điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Những quan điểm chỉ đạo và quy định nêu trên vừa là định hướng vừa là cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng cho việc nội luật hóa các điều ước quốc tế nói chung vừa có tác dụng định hướng việc xây dựng luận cứ khoa học để hoàn thiện pháp luật đảm bảo thực thi các công ước quốc tế trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam nói riêng.

Về phương diện thực tiễn, việc nội luật hóa các điều ước quốc tế còn xuất phát từ tình hình tội phạm và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm tại Việt Nam. Trong xu thế toàn cầu hóa, tình hình tội phạm có nhiều diễn biến phức tạp, xu hướng móc nối, liên kết, chỉ đạo giữa các tổ chức tội phạm trong và ngoài nước ngày càng gia tăng. Trước hết là đối với tình hình tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, từ năm 2015 đến hết năm 2024, trên địa bàn cả nước xảy ra 276 vụ án với 987 bị can, trung bình mỗi năm có hơn 28 vụ án xâm phạm an ninh quốc gia với khoảng 100 bị can. Hầu hết các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia đều có sự liên kết hoặc nhận được sự hậu thuẫn của các cơ quan tình báo, cá nhân, tổ chức phản động bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Trong khi đó, tội phạm xâm phạm trật tự, an toàn xã hội cũng diễn biến theo xu hướng gia tăng liên kết trong và ngoài nước. Theo báo cáo tổng kết của Bộ Công an, trong giai đoạn 2014-2023, trên địa bàn toàn quốc đã xảy ra 516.213 vụ, với 817.169 đối tượng phạm tội về hình sự, trong đó tình trạng tái phạm tội xảy ra hết sức phức tạp, đến mức báo động với 84.944 vụ (chiếm tỷ lệ 16,5%) và 141.002 (chiếm tỷ lệ 17,3%) tổng số vụ và đối tượng phạm tội hình sự. Đặc biệt, trong năm 2024, tình hình tội phạm về trật tự xã hội tiếp tục diễn biến phức tạp, các cơ quan chức năng đã điều tra, khám phá 48.032 vụ, tăng 12,53% so với cùng kỳ năm 2023; bắt và xử lý 94.098 đối tượng; trong đó tình trạng tái phạm tội vẫn chiếm tỉ lệ cao (hơn 20% trong tổng số vụ và đối tượng phạm tội hình sự.

3-1760064681.png

Trong sự gia tăng về tình hình tội phạm ở Việt Nam thời gian qua, trừ những tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, hầu hết các tội phạm xâm phạm trật tự an, toàn xã hội đều là sự quan tâm chung của nhiều quốc gia và cộng đồng quốc tế như: tội phạm tham nhũng, tội phạm lừa đảo trực tuyến, tội phạm ma túy... Đối với tội phạm tham nhũng, thời gian qua tội phạm tham nhũng ở Việt Nam đang gia tăng cả về quy mô và tính chất phức tạp, các vụ án tham nhũng đã gây ra thiệt hại cho Nhà nước hàng ngàn tỉ đồng. Trong năm 2024, lực lượng Cảnh sát Điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu trong toàn quốc đã khởi tố 825 vụ với 1.646 bị can phạm tội về tham nhũng (tăng 16,4% so với năm 2023), thu hồi được 1.334,6 tỉ đồng cùng nhiều tài sản có giá trị. Đối với tội phạm liên quan đến lừa đảo trực tuyến, tổng số thiệt hại các đối tượng gây ra cho người dùng Việt Nam năm 2024 ước tính lên tới 18.900 tỉ đồng với 03 hình thức phổ biến gồm: dụ dỗ người dùng tham gia các chiêu trò đầu tư giả, hứa hẹn lợi nhuận cao; giả mạo danh tính cơ quan, tổ chức; lừa thông báo trúng thưởng, khuyến mãi lớn. Đặc biệt, tội phạm liên quan đến ma túy tiếp tục diễn biến phức tạp, gây ra nhiều hệ lụy cho sự ổn định, phát triển về kinh tế - xã hội của Việt Nam nói riêng, khu vực và quốc tế nói chung. Tính riêng trong năm 2024, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy toàn quốc đã đấu tranh thành công 29.928 vụ, bắt giữ 51.938 đối tượng, thu giữ 60kg thuốc phiện, 680kg heroin, gần 2,3 tấn cần sa, 3,3 tấn và 3,3 triệu viên ma túy tổng hợp. Đến tháng 04/2025, toàn quốc có 369.359 người nghiện, người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghi sử dụng trái phép chất ma túy và người bị quản lý sau cai nghiện ma túy (trong đó có 107.278 người chiếm 29,04%).

Thực tiễn trên đặt ra nhu cầu tất yếu Việt Nam cần chung tay cộng đồng quốc tế để thiết lập khuôn khổ pháp lý cho việc hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm góp phần bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của Việt Nam, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm trong phạm vi khu vực và trên toàn cầu. Chỉ riêng trong lĩnh vực tư pháp hình sự, cho đến nay Việt Nam đã kí kết, phê chuẩn, tham gia nhiều điều ước quốc tế quan trọng, cụ thể: Công ước Liên Hợp Quốc về Chống Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (kí ngày 13/12/2000, phê chuẩn ngày 08/6/2012); Nghị định thư bổ sung - Chống buôn bán người, đặc biệt phụ nữ và trẻ em (gia nhập ngày 08/6/2012); Công ước Liên Hợp Quốc Chống tra tấn (tham gia ngày 07/11/20130; Công ước Quốc tế về Bắt cóc (gia nhập ngày 09/01/2014); Công ước Quốc tế về Chống đánh bom khủng bố (gia nhập 09/01/2014); Công ước Quốc tế về Chống tài trợ khủng bố (gia nhập ngày 25/9/2002); Công ước Quốc tế về Xâm phạm máy bay (phê chuẩn ngày 17/9/1979); Công ước về tội Diệt chủng (gia nhập ngày 09/7/1981); Công ước về Tội ác và Tội ác chiến tranh - không áp dụng thời hiệu (gia nhập ngày 06/5/1983); Công ước Geneva và Nghị định thư liên quan đến luật xung đột vũ trang (Công ước Geneva gia nhập ngày 28/7/1957, Nghị định thư gia nhập ngày 19/10/1981); Công ước Kiểm soát ma túy đơn lẻ (gia nhập ngày 14/9/1970); Công ước Liên Hợp Quốc Chống buôn bán trái phép Ma túy và Chất tâm thần (phê chuẩn ngày 20/12/1980)…Việc kí kết, tham gia các điều ước quốc tế giúp Việt Nam chủ động hợp tác giải quyết những thách thức có tính toàn cầu cũng đồng thời giải quyết những vấn đề của Việt Nam. Là thành viên của các điều ước quốc tế, Việt Nam nhận được sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, đồng thời Việt Nam cũng đóng vai trò quan trọng cùng các quốc gia trong việc bảo vệ hòa bình, an ninh của nhân loại.

3. Một số phương hướng hoàn thiện pháp luật hình sự theo quy định các điều ước quốc tế góp phần thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 66-NQ/TW trong thời gian tới

Một là, các cơ quan hoạch định chính sách, pháp luật cần chú trọng nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, từ đó xây dựng chủ trương nội luật hóa các nội dung có liên quan đến quy định trong các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta là thành viên cũng như có khả năng tham gia trong thời gian tới. Các cơ quan nghiên cứu cần xác lập nhận thức lý luận về nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế trong xây dựng pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng, thông qua đó xác định rõ mục đích nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế không chỉ thể hiện trách nhiệm của quốc gia thành viên điều ước mà còn nhằm phúc đáp yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân trong bối cảnh chủ động hội nhập quốc tế.

4-1760064681.jpg

Thượng tá, TS. Phạm Đức Trọng tại Hội thảo Khoa học: “Đưa Nghị quyết 66-NQ/TW vào cuộc sống: Yêu cầu, cơ chế và giải pháp thực thi” (Hội thảo do Viện IBLA và Tạp chí Pháp lý tổ chức)

Hai là, xây dựng luận cứ khoa học cho việc nội luật hóa quy định của các điều ước quốc tế góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam. Tiến hành nghiên cứu, khảo sát tổng thể quy định của các điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam từ đó cung cấp những luận cứ khoa học vững chắc cho hoạt động nội luật hóa. Luận cứ khoa học phải chỉ ra sự cần thiết của việc nội luật hóa; cơ quan có thẩm quyền nội luật hóa (trong việc xây dựng pháp luật hình sự hiện nay là Quốc hội); những quy định cần phải được nội luật hóa; mức độ nội luật hóa… để không mâu thuẫn với truyền thống pháp lý Việt Nam và không mâu thuẫn với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp trong nước.

Ba là, nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế là vấn đề hội nhập quốc tế về pháp luật, do đó rất dễ nảy sinh những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, tác động trực tiếp đến chính trị, đối ngoại của đất nước nên cần được quan tâm, tuân thủ những nguyên tắc, yêu cầu căn bản, như:

- Tuân thủ nguyên tắc chung của chính sách đối ngoại và đường lối, chủ trương hợp tác quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, đó là: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” .

- Về những nguyên tắc cụ thể, trước hết dưới phương diện lý luận và thực tiễn cần làm rõ nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế có đặt ra đối với những quy định trong điều ước quốc tế mà Nhà nước ta chưa là thành viên hay không. Tham khảo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới gắn với bối cảnh tình hình thực tiễn Việt Nam, về mặt nhận thức lý luận và thực tiễn hoàn toàn có thể nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế mà Nhà nước ta chưa là thành viên nếu không vi phạm nguyên tắc, yêu cầu chung của chính sách đối ngoại, đường lối hợp tác quốc tế về pháp luật như nêu trên và những yêu cầu, nguyên tắc riêng sẽ được đề cập ở dưới đây. Việc làm này sẽ giúp cho chúng ta chủ động hơn trong hợp tác quốc tế về pháp luật, phúc đáp các yêu cầu về đối nội, đồng thời cũng giải quyết tốt những yêu cầu đối ngoại trong quan hệ quốc tế.

- Việc nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế vào pháp luật trong nước chỉ đặt ra nếu không nội luật hóa quy định đó sẽ tạo “khoảng trống” về pháp luật cả trong đối nội và đối ngoại. Chúng ta cần thống nhất rằng, sự ra đời của điều ước quốc tế là để giải quyết những vấn đề liên quốc gia, xuyên quốc gia. Điều ước quốc tế không có sứ mệnh giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi nội bộ của quốc gia. Phân tích này đưa ra một gợi ý với những quy định không mang tính bắt buộc nếu thấy thực sự không cần thiết nên chăng không nội luật hóa hoặc với các quy định có tính chất khuyến nghị, tùy nghi, việc nội luật hóa cần cân nhắc rất kỹ về lợi ích quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, việc đánh giá về lợi ích quốc gia, dân tộc, nội luật hóa hay không nội luật hóa là vấn đề chính trị, pháp lý rất phức tạp, cần phải được nghiên cứu thận trọng.

- Đối với điều ước quốc tế có một số quy định xung đột với pháp luật trong nước, như chưa được quy định, quy định trái với pháp luật hoặc thậm chí có quy định chi tiết, đầy đủ hơn quy định của pháp luật trong nước thì cần phải dự kiến được nội dung các công việc bao gồm cả lập pháp, hành pháp và tư pháp cần triển khai, nhất là trong việc xây dựng và tổ chức áp dụng pháp luật. Do đó, khi tiến hành nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế cần có sự tham vấn, lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động của điều ước quốc tế đó; đánh giá tác động quy định của điều ước quốc tế dưới các góc độ chính trị, xã hội, pháp lý, đối ngoại, đặc biệt là phải đánh giá cho được tác động đến tình hình an ninh, trật tự và việc thực hiện nhiệm vụ an ninh, quốc phòng cũng như sự phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.

Tóm lại, việc nội luật hóa quy định của điều ước quốc tế trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật là đòi hỏi tất yếu, khách quan nhưng cần được cân nhắc thận trọng và phải dựa trên những cơ sở khoa học xác đáng. Chỉ có như vậy, hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng mới phát huy hết vai trò quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chủ động hội nhập quốc tế.                                                                                         

--------------------------

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quốc hội (2016), Luật Điều ước quốc tế số 108/2016/QH13 ngày 09/4/2016, Điều 2, Hà Nội.

2. Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế được kí kết ngày 23/5/1969, có hiệu lực ngày 27/01/1980.

3. Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế (1969), Công ước về Luật Điều ước quốc tế (Công ước 1969), Lời nói đầu.

4. Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế (1969), Công ước về Luật Điều ước quốc tế (Công ước 1969), Điều 11.

5. Cục An ninh điều tra - Bộ Công an (2024), Báo cáo tổng kết giai đoạn 2015-2024, ngày 03/12/2024, Hà Nội.

6. Cục Cảnh sát Điều tra tội phạm về trật tự xã hội - Bộ Công an (2024), Báo cáo tổng kết công tác giai đoạn 2014-2023, ngày 09/12/2024, Hà Nội.

7. Cục Cảnh sát Điều tra tội phạm về trật tự xã hội - Bộ Công an (2024), Báo cáo tổng kết công tác năm 2024, ngày 03/12/2024, Hà Nội.

8. Cục Cảnh sát Điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu - Bộ Công an (2024), Báo cáo tổng kết công tác năm 2024, ngày 06/12/2024, Hà Nội..

9. Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao - Bộ Công an (2024), Báo cáo tổng kết công tác năm 2024, ngày 05/12/2024, Hà Nội.

10. Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Bộ Công an (2024), Báo cáo tổng kết công tác năm 2024, ngày 02/12/2024, Hà Nội.

11. Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Bộ Công an (2025), Báo cáo sơ kết công tác năm 2025, ngày 15/5/2025, Hà Nội.

12. Quốc hội (2016), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Điều 12, Hà Nội.

Thượng tá, TS. Phạm Đức Trọng (Trường Đại học An ninh nhân dân)

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin