
Ảnh minh hoạ
1. Đặt vấn đề
Tình trạng hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế được xã hội quan tâm trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, có sự tham gia ngày càng sâu rộng của nhiều chủ thể kinh tế trong nước và quốc tế. Việc áp dụng các biện pháp hình sự đối với những quan hệ vốn dĩ thuộc bản chất dân sự, kinh tế không chỉ trực tiếp gây thiệt hại cho doanh nghiệp mà còn gián tiếp tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư và sự vận hành của nền kinh tế nói chung. Mặc dù vấn đề này từng được Đảng và Nhà nước nhận diện và định hướng xử lý, song việc triển khai trên thực tiễn vẫn chưa đạt hiệu quả, dẫn đến sự suy giảm niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp vào chính sách và pháp luật hiện hành.
Trước tình hình đó, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30 tháng 4 năm 2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đã nhấn mạnh lại định hướng “không hình sự hóa quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự; không dùng biện pháp hành chính để can thiệp, giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế”. Định hướng nêu trên thể hiện nguyên tắc nhất quán trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, đồng thời khẳng định quyết tâm xây dựng một môi trường pháp lý minh bạch, ổn định và thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Nghị quyết số 66-NQ/TW không chỉ nhấn mạnh yêu cầu cải cách mạnh mẽ về tư duy lập pháp, mà còn định hình chuyển biến từ việc quản lý sang việc hỗ trợ, kiến tạo, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Do đó, việc nghiên cứu một số giải pháp hoàn thiện xây dựng pháp luật theo định hướng “không hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế” cần được tiến hành một cách toàn diện và đồng bộ, nhằm bảo đảm nguyên tắc được thực thi hiệu quả trong thực tiễn, qua đó góp phần củng cố niềm tin xã hội và thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
2. Tác động tiêu cực của tình trạng hình sự hóa trong quan hệ dân sự, kinh tế
Thuật ngữ hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế tuy không còn mới, nhưng đến nay vẫn chưa được thừa nhận một cách chính thức trong lý thuyết của pháp luật hình sự. Từ kinh nghiệm thực tiễn và nghiên cứu, TS. Lê Đình Khiên đã giải thích thuật ngữ này như sau: “Hình sự hóa các giao dịch dân sự, kinh tế là việc chuyển hóa các quan hệ dân sự, kinh tế thành quan hệ pháp luật hình sự thông qua việc xây dựng các quy phạm pháp luật hình sự của cơ quan có thẩm quyền hoặc là việc áp dụng một cách không chính xác quy phạm pháp luật hình sự của cơ quan, cá nhân tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết các vi phạm pháp luật và tranh chấp dân sự, kinh tế”.
Theo đó, việc hình sự hóa các giao dịch dân sự, kinh tế có thể xảy ra ở khâu xây dựng quy phạm pháp luật hình sự, trong đó việc xây dựng pháp luật là ý chí chủ quan của con người, dựa trên việc xem xét, đánh giá các quan hệ vận động trong xã hội để quyết định việc có hay không hình sự hóa một vấn đề nào đó. Hoặc việc hình sự hóa còn có thể xảy ra trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự đối với trường hợp vi phạm pháp luật hay tranh chấp dân sự, kinh tế. Các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết sai phạm chưa đến mức bị xử lý hình sự hoặc áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ dân sự, kinh tế thông qua quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
Việc hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế để lại nhiều tác động tiêu cực, gây ra những hệ lụy lớn cho xã hội. Trong đó, chịu ảnh hưởng nặng nề nhất chính là môi trường đầu tư, kinh doanh. Việc hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế không chỉ xâm phạm đến quyền tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận, định đoạt của các chủ thể trong quan hệ dân sự, kinh tế, mà còn can thiệp trái pháp luật vào quá trình vận động bình thường của xã hội. Việc hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế sẽ tạo ra tâm lý không muốn đầu tư do e ngại rủi ro pháp lý, từ đó dẫn đến sự “ám ảnh” khởi nghiệp, môi trường kinh doanh không còn an toàn khiến dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước bị hạn chế.
Tiếp theo là việc hình sự hóa có thể bị lạm dụng như một phương thức giải quyết tranh chấp. Pháp luật hình sự là biện pháp chế tài nghiêm khắc nhất của Nhà nước, trong đó cơ sở của trách nhiệm hình sự là chỉ có người hoặc pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, vấn đề hình sự chỉ nên đặt ra khi có hành vi nguy hiểm cho xã hội rõ ràng. Nếu không, pháp luật hình sự sẽ bị lợi dụng, làm ranh giới giữa các ngành luật trở nên mờ nhạt, gây xáo trộn trong thi hành và áp dụng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội.
Thêm vào đó, việc hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế còn làm tăng tình trạng oan sai, ảnh hưởng đến uy tín, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp. Khi đó không chỉ có các chủ thể bị hình sự hóa phải chịu tổn thất, thiệt hại, mà hệ lụy còn lan rộng ra là “cách nhìn” của xã hội đối với hệ thống tư pháp. Nếu công lý không được bảo đảm thì sẽ làm giảm sút niềm tin và sự tín nhiệm của xã hội đối với hệ thống pháp luật và uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
3. Một số nguyên nhân của tình trạng hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế
Thứ nhất, quy định về cấu thành tội phạm của một số tội danh chưa cụ thể, rõ ràng trong Bộ luật Hình sự. Chính sự thiếu rõ ràng này dẫn đến tình trạng nhận thức và áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Trên thực tế, nhiều trường hợp quan hệ dân sự, kinh tế lại bị xử lý theo hướng hình sự, cho thấy sự lúng túng và sai lệch trong việc định tội danh, từ đó làm nảy sinh hiện tượng hình sự hóa những quan hệ vốn dĩ không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật hình sự. Vì vậy, bản chất của sự nhầm lẫn của cơ quan tố tụng trong các vụ án bị hình sự hóa không phải là sự nhầm lẫn giữa vi phạm nghĩa vụ trong vụ án mà là sự nhầm lẫn trong việc nhận định hành vi của người bị buộc tội là tội phạm hay không?
Thứ hai, hệ thống pháp luật dân sự, kinh tế hiện nay còn thiếu không ít quy định về cả phương diện nội dung lẫn thủ tục tố tụng. Những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật dân sự, kinh tế chưa được giải quyết triệt để đã khiến cho nhiều chủ thể có tranh chấp thường lựa chọn con đường giải quyết tranh chấp bằng tố tụng hình sự nhằm bảo vệ quyền lợi của mình thay vì sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế hoặc giải quyết tranh chấp ngoài tòa án như thủ tục trọng tài, hòa giải thương mại. Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng của khoa học – công nghệ và hoạt động giao dịch trên môi trường số đã đặt ra nhiều vấn đề pháp lý mới chưa được điều chỉnh kịp thời trong hệ thống pháp luật hiện hành. Nhiều quy định cũ chưa được sửa đổi, bổ sung dẫn đến sự chồng chéo, thiếu thống nhất và thiếu hướng dẫn áp dụng đối với những giao dịch này. Từ đó, cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế trong thực tiễn.

Thứ ba, nguyên nhân còn xuất phát từ chính các cá nhân, doanh nghiệp là đối tượng trong các quan hệ dân sự, kinh tế bị hình sự hóa. Do chưa có ý thức pháp luật đầy đủ và còn hạn chế trong hiểu biết pháp lý, nhiều chủ thể đã lựa chọn cách thức đẩy tranh chấp dân sự, kinh tế thành vụ án hình sự với kỳ vọng nhanh chóng đòi lại quyền và lợi ích của mình hoặc là biện pháp mang tính răn đe, nghiêm khắc hơn cho bên còn lại. Bên cạnh đó, việc thiếu kỹ năng tự bảo vệ quyền lợi, cũng như sự chậm trễ trong việc tìm đến sự hỗ trợ của luật sư, luật gia hoặc chuyên gia pháp lý, đã khiến vụ việc vượt quá giới hạn tranh chấp dân sự thông thường và bị xử lý theo hướng hình sự. Trên thực tế, nếu có sự tham gia kịp thời của luật sư, luật gia hoặc tư vấn pháp lý ngay từ giai đoạn đầu, thì nhiều tranh chấp đã có thể được giải quyết đúng bản chất mà không rơi vào tình trạng hình sự hóa.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp trong một số trường hợp còn bộc lộ những hạn chế về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế hoặc còn chậm thích ứng với tiến bộ khoa học – kỹ thuật nên có những quan hệ dân sự, kinh tế bị hình sự hóa không áp dụng đúng pháp luật.
Từ những phân tích ở trên có thể thấy, tình trạng hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế không phải xuất phát từ một nguyên nhân đơn thuần mà là hệ quả của nhiều yếu tố khác nhau. Hệ thống pháp luật thiếu rõ ràng, không đồng bộ, đặc biệt là các quy định về cấu thành tội phạm và pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, kinh tế trong bối cảnh mới. Cùng với sự hạn chế về nhận thức pháp luật của các cá nhân, doanh nghiệp đã góp phần thúc đẩy xu hướng hình sự hóa. Bên cạnh đó, năng lực chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp trong nhiều trường hợp chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa chính xác, thiếu nhất quán. Từ sự cộng hưởng của các nguyên nhân này đã dẫn đến tình trạng hình sự hóa các quan hệ vốn dĩ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự, kinh tế. Do đó, việc nhận diện đầy đủ và toàn diện các nguyên nhân là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp khắc phục hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc “không hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế” được thực thi trong thực tiễn.
4. Một số giải pháp hoàn thiện trong xây dựng pháp luật theo định hướng không hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế
4.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự theo hướng xem xét xây dựng cơ chế như “phiên điều trần sơ bộ”, Tòa án có thể tham gia giải quyết vụ án ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố cùng với lập luận và bằng chứng mà bên buộc tội và bên gỡ tội đưa ra, để đánh giá chứng cứ có đủ căn cứ để đưa ra vụ án ra xét xử hay không. Cơ chế này sẽ nâng cao vai trò, tầm quan trọng của người bào chữa khi phải tìm ra căn cứ phản bác những vấn đề còn mâu thuẫn của vụ án, những chứng cứ buộc tội không đầy đủ, không rõ ràng hoặc gượng ép.
Trong hoạt động tố tụng hình sự hiện nay, giữa bên buộc tội và bên gỡ tội vẫn tồn tại những chênh lệch pháp lý nhất định. Vì vậy, cần thiết phải đảm bảo sự ngang bằng về quyền và cơ chế thực thi giữa các bên trong tố tụng hình sự để làm hạn chế và tránh lạm dụng tình trạng hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế.
Thứ hai, tiếp tục xây dựng và ban hành các án lệ hoặc hướng dẫn liên ngành liên quan đến các tội phạm dễ có thể bị hình sự hóa như như tội phạm xâm phạm sở hữu (tội lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản...); tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (tội trốn thuế, cho vay nặng lãi...). Các Thông tư liên lịch liên ngành sẽ đặt ra nhận thức thống nhất áp dụng chung cho cả cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án thay vì các văn bản điều chỉnh nội bộ từng ngành như hiện nay. Trong đó, cần làm rõ các vấn đề về cấu thành các tội phạm như xác định rõ ràng, cụ thể các dấu hiệu tội phạm, đồng thời xác định ranh giới giữa quan hệ dân sự, kinh tế với hình sự. Từ đó, các hành vi không phải là tội phạm sẽ không bị lợi dụng, lạm dụng để có thể “tùy tiện” kết tội.
Thứ ba, cần sớm hoàn thiện luật nội dung đối với các hoạt động, giao dịch dân sự, kinh tế trên môi trường số. Trong bối cảnh khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, các giao dịch liên quan đến tài sản số, trí tuệ nhân tạo ngày càng phổ biến. Mặc dù hiện nay, Luật Công nghệ công nghiệp số năm 2025 được thông qua đã lần đầu ghi nhận về tài sản số, trí tuệ nhân tạo, nhưng Luật Giao dịch điện tử hiện hành vẫn tồn tại nhiều khoảng trống, thiếu tính thống nhất làm cho việc áp dụng quy định mới trên thực tế trở nên khó khăn, nổi bật là vấn đề liên quan đến nội dung, điều kiện, hình thức của giao dịch điện tử. Do đó cần sớm xây dựng và sửa đổi các quy định cần thiết để đảm bảo hệ thống pháp luật thống nhất, tránh mâu thuẫn, chồng chéo.
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi nguyên tắc không hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế
Thứ nhất, cần nhanh chóng triển khai ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong việc xây dựng, quản lý hệ thống quy định pháp luật và cảnh báo những vấn đề còn chưa được phân rõ ràng giữa lĩnh vực hình sự và dân sự, kinh tế. Trí tuệ nhân tạo có thể đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, phát hiện mâu thuẫn, chồng chéo của các quy định pháp luật. Đồng thời, nó còn có thể thu thập, đánh giá phản ứng của xã hội đối với những vấn đề hay trường hợp có tồn tại “mập mờ” giữa quan hệ dân sự, kinh tế với hình sự. Từ đó, dẫn chứng thông tin theo thông lệ quốc tế hay các trường hợp tương tự đã được Tòa án trong nước giải quyết nhằm đưa ra ý kiến để cơ quan có thẩm quyền cân nhắc việc xử lý hình sự có đảm bảo các điều kiện theo quy định của pháp luật không. Góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết các vụ án, giảm thiểu khả năng xảy ra oan sai hay vi phạm tố tụng.
Thứ hai, nâng cao năng lực chuyên môn của cơ quan tiến hành tố tụng. Tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, dân sự không hoàn toàn bắt nguồn từ các quy định pháp luật, mà còn xuất phát từ cách áp dụng và thực thi pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền. Nếu năng lực chuyên môn hạn chế, không nắm vững các quy định của pháp luật hình sự và các lĩnh vực pháp luật có liên quan thì dễ dẫn đến những nhận định, quy kết sai lầm, từ đó tạo ra kết quả điều tra, truy tố, xét xử không phù hợp, vi phạm pháp luật. Thậm chí còn tạo ra phản ứng dư luận trái chiều, ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước.
Vì vậy, cần thiết phải đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ tư pháp thông qua các chương trình tập huấn chuyên sâu, thường xuyên cập nhật kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử. Bên cạnh đó, việc tổ chức định kỳ các hội thảo, tọa đàm và hoạt động rút kinh nghiệm trong quá trình giải quyết vụ án không chỉ giúp cán bộ tư pháp trao đổi, học hỏi từ thực tiễn mà còn tạo diễn đàn để thảo luận, thống nhất cách hiểu và áp dụng pháp luật. Đây là giải pháp quan trọng nhằm hạn chế sự khác biệt trong nhận thức và vận dụng pháp luật giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời góp phần nâng cao tính minh bạch, khách quan trong hoạt động xét xử.
Ngoài ra cần sớm phát triển “sổ tay nghiệp vụ điện tử” trong đó có thể xây dựng hệ thống tra cứu dữ liệu pháp luật được cập nhật, sửa đổi thường xuyên liên tục; đưa ra các quy trình hay yêu cầu cụ thể phải thực hiện kiểm tra và đánh giá trong quy trình tố tụng. Việc ứng dụng khoa học – công nghệ trong quy trình tố tụng còn tạo thuận lợi cho công tác thông kê, báo cáo và hoạch định chính sách.
Thứ ba, khuyến khích các bên trong quan hệ dân sự, kinh tế áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án (ADR) như trọng tài, hòa giải thương mại, hòa giải tiền tố tụng (hòa giải cơ sở). Để thúc đẩy các bên tranh chấp lựa chọn các phương thức giải quyết này thì phải thể hiện được vai trò, ý nghĩa, ưu điểm, lợi thế của các phương thức giải quyết tranh chấp nêu trên. Trong đó cần tiếp tục cải cách quá trình giải quyết vụ án dân sự, kinh tế tại Tòa án, đặc biệt là việc đẩy mạnh công tác chuyển đổi số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong giải quyết các vụ án trên cơ sở kinh nghiệm áp dụng thành công mô hình Tòa án điện tử của Tòa án nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh (nay là Tòa án nhân dân khu vực 1 – thành phố Hồ Chí Minh) .
Hơn nữa, cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật về cơ chế giải quyết bằng ADR. Đối với Luật Trọng tài thương mại 2010 khi sửa đổi thì cần mở rộng phạm vi giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại; mở rộng thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài trong việc giải quyết các vấn đề tố tụng phát sinh theo hướng Hội đồng Trọng tài có quyền hạn toàn bộ trong việc tiến hành xét xử theo bất kỳ cách thức, trình tự và thủ tục nào mà Hội đồng Trọng tài cho là phù hợp; điều chỉnh thu hẹp quy định về hủy phán quyết trọng tài. Ngoài ra, đối với hòa giải thương mại thì cần xây dựng một đạo luật riêng trên cơ sở Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại, nhằm thiết lập khung pháp lý riêng một cách toàn diện và thống nhất về hòa giải thương mại.
Thêm vào đó cần đổi mới cơ chế thi hành án nhằm đảm bảo cho bản án, phán quyết, kết quả hòa giải của Tòa án, Trọng tài, Hòa giải thương mại được thi hành nhanh chóng, hiệu quả theo hướng nếu không chấp hành thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có nguy cơ đối mặt với chế tài hình sự.

Thứ tư, khuyến khích cơ chế tham vấn của người dân, doanh nghiệp đối với các luật gia, luật sư khi gặp phải các vấn đề pháp lý. Đây là những chủ thể am hiểu pháp luật sâu sắc và được coi là đối trọng với bên buộc tội trong tố tụng hình sự, những chủ thể này có thể giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp một cách kịp thời cho những đối tượng bị hình sự hóa trong các giao dịch dân sự, kinh tế. Đặc biệt, vai trò của Hội Luật gia là rất quan trọng trong việc tham gia xây dựng pháp luật, giám sát và phản biện xã hội, tuyên truyền phổ biến pháp luật, trợ giúp pháp lý nhằm nâng cao kiến thức pháp luật với người dân, doanh nghiệp. Qua đó, Hội luật gia và các hội viên có thể trở thành kênh “cố vấn pháp luật” chuyên nghiệp, hàng đầu thông qua việc tổ chức các buổi tư vấn pháp luật, hội thảo, tổng đài tư vấn...
Đồng chí Phan Đình Trạc - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương đã nhấn mạnh: “Giới Luật gia có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc hoàn thiện chế định tố tụng tư pháp và tranh tụng. Vai trò này còn được thể hiện qua việc đóng góp trực tiếp vào việc bảo đảm tuân thủ pháp luật, bảo vệ công lý, thúc đẩy quyền con người và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái”.
Bên cạnh đó, hệ thống Tòa án hiện đang ở trạng thái quá tải, vì vậy việc phát triển một cách có tổ chức đội ngũ Luật gia trở thành các trọng tài viên, hòa giải viên giỏi là vô cùng thiết yếu. Góp phần nâng cao năng lực của các Trung tâm trọng tài, hòa giải, cũng như đội ngũ trọng tài viên, hòa giải viên. Đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong kỷ nguyên mới của đất nước.
5. Kết luận
Định hướng không hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế trong Nghị quyết 66-NQ/TW là sự tiếp nối chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, góp phần xây dựng môi trường pháp lý minh bạch, bảo đảm quyền tự do đầu tư, kinh doanh. Để thực hiện hiệu quả định hướng theo tinh thần của Nghị quyết 66-NQ/TW, thì cần xây dựng và hoàn thiện pháp luật theo hai hướng là phân định ranh giới quy định giữa dân sự, kinh tế và hình sự rõ ràng, nhất quán; đồng thời nâng cao năng lực thực thi pháp luật. Thông qua những giải pháp đề xuất trong đề tài nhằm góp phần thúc đẩy việc xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên mới.
------------------------------
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Hình sự năm 2015
2. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025), Nghị quyết 66-NQ/TW ngày 30 tháng 4 năm 2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
4. Luật Giao dịch điện tử năm 2023
5. PGS.TS. Trần Văn Độ, ThS. Trần Thị Khánh Trâm (2023), Giải pháp phòng tránh hình sự hóa các vi phạm trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, hành chính, Tạp chí Kiểm sát, số 11/2023
6. TS. Lê Đình Khiên (2001), Hình sự hóa các giao dịch dân sự, kinh tế - Khái niệm và nguyên nhân, Đề tài cấp bộ Các giải pháp chống hình sự hóa các giao dịch dân sự, kinh tế
7. LS. Nguyễn Tiến Lập (2025), Giải pháp thể chế nào để hạn chế ‘hình sự hóa’?, Tạp chí Kinh tế Sài gòn, nguồn: https://thesaigontimes.vn/giai-phap-the-che-nao-de-han-che-hinh-su-hoa/, truy cập ngày 25/8/2025.