Phân biệt tội tham ô tài sản với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
(Pháp Lý). Bài viết phân tích những đặc điểm pháp lý có tính chất tương đồng và khác biệt giữa Tội tham ô tài sản với Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Việc phân biệt hai tội danh này trong thực tiễn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng khi định tội danh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Nhận diện một số thủ đoạn phổ biến của tội phạm tham nhũng trong giai đoạn hiện nay
(Pháp Lý) - Tham nhũng được nhận diện là một vấn nạn của đất nước, trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau, tội phạm tham nhũng luôn xảy ra ở mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, tập trung chủ yếu ở một số lĩnh vực cụ thể như lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai; xây dựng cơ bản; đầu tư công, quản lý tài sản công; tài chính, ngân hàng; y tế, giáo dục, bảo hiểm xã hội... Bài viết phân tích một số thủ đoạn phổ biến của tội phạm tham nhũng trong một số lĩnh vực cụ thể, làm cơ sở, tiền đề để các cơ quan tiến hành tố tụng nhận diện và có giải pháp đấu tranh với tội phạm này trong thời gian tới.
Từ các vụ án kinh tế tham nhũng trọng điểm: Nhận diện những chiêu thức, thủ đoạn của tội phạm và kiến nghị bịt những lỗ hổng pháp luật về đất đai, đấu thầu, đấu giá…
(Pháp lý) - Nghiên cứu từ tố tụng các vụ án kinh tế tham nhũng lớn điều tra, xét xử thời gian qua, chúng ta có thể nhận diện được các chiêu thức, thủ đoạn điển hình mà các đối tượng đã sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, đặc biệt là thủ đoạn cấu kết tinh vi giữa doanh nghiệp với những quan chức có thẩm quyền trong việc đấu thầu, chỉ định thầu, ký quyết định mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất… gây thất thoát tài sản Nhà nước hàng nghìn tỉ đồng.
Nhận diện những khoảng trống pháp lý trong công tác phòng, chống tham nhũng
(Pháp lý) – Từ những nghiên cứu thực tế, PV Tạp chí điện tử Pháp lý xin điểm lại những khoảng trống pháp lý lớn trong công tác PCTN hiện nay cần sớm được các cơ quan chức năng nghiên cứu khắc phục.
Một số vấn đề về pháp luật đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại ngân hàng thương mại cổ phần
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các giao dịch liên quan đến đất đai, cụ thể là đăng ký thế chấp quyền sử đụng đất và tài sản gắn liền với đất tại ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) ngày càng đa dạng, phức tạp; một số quy định trước đây chưa rõ ràng, dẫn đến cách hiểu không thống nhất và khó thực hiện... Bài viết nhằm định hướng, hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại ngân hàng TMCP theo các quy định của pháp luật hiện hành.
Quyền tiếp cận đất đai của Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Quốc tế
(Pháp lý) - Quyền tiếp cận đất đai là một trong những vấn đề hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp nói chung và đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói riêng. Pháp luật về quyền tiếp cận đất đai của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian vừa qua đã không ngừng được đổi mới, hoàn thiện và đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về nội dung này vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập tạo ra những rào cản đối với quá trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Từ các đại án liên quan đến sai phạm quản lý, sử dụng đất: Những vấn đề cốt lõi cần quan tâm sửa đổi Luật Đất đai
(Pháp lý) – Thời gian gần đây, hàng loạt các vụ án liên quan đến sai phạm trong quản lý, sử dụng đất đai được phanh phui, xử lý. Đặc biệt, liên quan đến các vụ án này, nhiều cán bộ lãnh đạo các tỉnh thành bị xử lý kỷ luật, khởi tố bắt giam. Nghiên cứu những chiêu thức, thủ đoạn , hành vi phạm tội của các bị can, bị cáo trong các vụ án này, phần nào có thể thấy rõ những lỗ hổng của Luật Đất đai đang hàng ngày, hàng giờ vô tình tiếp tay cho tiêu cực, tham nhũng. Từ đó, có thể thấy nhu cầu bức thiết của cuộc sống đòi hỏi phải khẩn trương sửa đổi Luật Đất đai. Và sau đây là những vấn đề cốt lõi cần tập trung sửa đổi, bổ sung đối với Luật Đất đai.
Nhu cầu bức thiết của cuộc sống đòi hỏi cần khẩn trương sửa đổi bổ sung Luật Đất đai.
Hàng loạt quan chức sa lầy trong các vụ án liên quan đến đất
Điển hình mới đây, Công an tỉnh Khánh Hòa vừa ra quyết định khởi tố vụ án vi phạm các quy định về quản lý đất đai, liên quan đến việc giao "đất vàng" ở Nha Trang cho doanh nghiệp tại Trường Chính trị Khánh Hòa để làm dự án BT. Được biết, đây là một trong số những vụ án mà Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Khánh Hòa tiếp nhận, tiến hành điều tra, liên quan đến sai phạm trong việc giao "đất vàng" ở Nha Trang cho doanh nghiệp để làm dự án BT.
Trước đó, theo kết luận của Thanh tra Chính phủ cuối năm 2020, từ tháng 1/2010 đến tháng 6/2017, tại tỉnh Khánh Hòa có 35 dự án sai phạm. Trong đó, rất nhiều dự án có đất nằm ở những khu vực trung tâm thành phố Nha Trang, vị trí đắc địa và phần lớn đều sử dụng đất công không thông qua đấu giá với nhiều hình thức khác nhau. Cũng trong giai đoạn này, thông qua cổ phần hóa, liên doanh, liên kết, nhiều khu đất do các doanh nghiệp Nhà nước đang sử dụng lần lượt về tay doanh nghiệp tư.
Liên quan đến những sai phạm nói trên, hàng loạt cán bộ lãnh đạo tỉnh Khánh Hoà đã bị xử lý kỷ luật bằng nhiều hình thức. Trong đó, cac ông Nguyễn Chiến Thắng, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa, ông Lê Đức Vinh, Chủ tịch UBND tỉnh và ông Đào Công Thiên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh đã bị kỷ luật bằng hình thức cách hết chức vụ.
Vụ án 43ha đất vàng ở Bình Dương, diễn biến mới nhất vào ngày 27/2 vừa qua, Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố, bắt tạm giam ông Lê Văn Trang - nguyên là Cục trưởng Cục Thuế tỉnh Bình Dương, ông Võ Thanh Bình - nguyên Cục phó và Nguyễn Thái Thanh - Phó trưởng phòng Quản lý hộ kinh doanh cá nhân và thu khác, Cục Thuế tỉnh Bình Dương để điều tra về hành vi "Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí" theo điều 219 Bộ luật Hình sự.
Cho đến nay, Cơ quan Công an đã khởi tố 10 bị can về hành vi “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” và hiện vụ án vẫn đang tiếp tục được mở rộng điều tra.
Tại TP.HCM, tháng 11/2018, Cơ quan CSĐT Bộ Công an khởi tố vụ án vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí xảy ra tại Tổng công ty Bia rượu nước giải khát Sài gòn (Sabeco). Đặc biệt, liên quan đến vụ án này, có hàng loạt quan chức lãnh đạo cơ quan từ địa phương đến trung ương bị khởi tố và bắt giam.
Theo đó, ông Vũ Huy Hoàng (cựu Bộ trưởng Bộ Công thương), bà Hồ Thị Kim Thoa (cựu Thứ trưởng Bộ Công thương hiện đang bị truy nã), ông Phan Chí Dũng (cựu Vụ trưởng Vụ công nghiệp nhẹ Bộ Công thương) bị đề khởi tố về tội Vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí.
Các bị can khác trực thuộc UBND Thành phố Hồ Chí Minh và các sở, ban, ngành gồm: Nguyễn Hữu Tín (cựu Phó Chủ tịch UBND), Đào Anh Kiệt (cựu Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường), Trương Văn Út (cựu Phó trưởng Phòng Quản lý đất, Sở Tài nguyên - Môi trường), Lê Văn Thanh (cựu Phó chánh Văn phòng UBND), Nguyễn Thanh Chương (cựu Trưởng Phòng Đô thị, Văn phòng UBND), Nguyễn Lan Châu (cựu chuyên viên Phòng Quản lý đất Sở Tài nguyên - Môi trường), Lâm Nguyên Khôi (cựu Phó Giám đốc Sở Kế hoạch - Đầu tư), Nguyễn Quang Minh (cựu Trưởng phòng Hạ tầng Sở Kế hoạch - Đầu tư) bị khởi tố về tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
Cũng tại TP HCM, liên quan đến vụ án cho thuê, giao “đất vàng” số 8 - 12 Lê Duẩn, Q.1, ông Nguyễn Thành Tài, nguyên Phó Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh và một số cán bộ thuộc cấp Sở của thành phố đã bị truy về tội Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí, vừa bị TAND TP.HCM tuyên xử (20/9), trong đó ông Tài bị kết án 8 năm tù.
Trong vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” xảy ra tại Tổng Công ty Nông nghiệp Sài Gòn, ông Trần Vĩnh Tuyến – đương kim Phó Chủ tịch UBND TPHCM vướng vòng lao lý vì liên quan đến việc chuyển nhượng trái phép dự án Khu dân cư Phước Long B, quận 9 có quy mô hơn 3,6 ha…
Trên đây chỉ là một vài ví dụ trong số hàng loạt vụ sai phạm về quản lý đất đai trên phạm vi cả nước trong thời gian gần đây. Nhưng đều cho thấy, đất đai như miếng mồi ngon để những chiếc vòi bạch tuộc tham nhũng bám lấy.
Nhận diện những lỗ hổng Luật Đất đai
Nghiên cứu từ những vụ án này có thể nhận thấy những bất cập của Luật Đất đai và các văn bản dưới luật đang có những lỗ hỗng lớn vô tình tiếp tay cho các nhóm lợi ích lợi dụng, thao túng, tự tung tự tác.
Thứ nhất, Luật Đất đai 2013 quy định, nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định giao đất, quyết định cho thuê đất, quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… Như vậy việc quyết định quyền sử dụng đất (là một quyền tài sản) bằng một quyết định hành chính, do một người là đại diện cơ quan hành chính nhà nước ban hành. Quy định như vậy có thể tạo ra cơ chế xin – cho, dễ nảy sinh tham nhũng.
Thứ hai, Luật Đất đai chỉ quy định việc đấu giá quyền sử dụng đất đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất chứ chưa quy định chặt chẽ, bắt buộc phải đấu giá đối với đất do doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng khi chuyển mục đích sử dụng đất. Vì thế, rất nhiều địa phương tìm cách lách luật bằng cách cho thuê đất, lập dự án cho hoạt động thương mại dịch vụ, có thời hạn sử dụng đất là 50 năm, sau một hai năm cho phép sử dụng lâu dài, chuyển mục đích sử dụng đất sang đất ở, để tránh phải đấu giá đất. Đồng thời quy định về đối tượng được giao đất, cho thuê đất không qua đấu giá còn khá rộng, chưa cụ thể.
Biểu hiện cụ thể của nó là những sai phạm của các quan chức trong việc ban hành các quyết định giao đất, cho thuê đất trái thẩm quyền, không qua đấu giá đấu thầu, gây thất thoát, lãng phí tài nguyên, tài sản và ngân sách Nhà nước.
Những sai phạm trong quản lý, sử dụng đất đai công sản khiến hàng loạt lãnh đạo quan chức nhiều tỉnh thành và cả cấp Bộ bị khởi tố
Chính những lỗ hổng nêu trên đã tiếp tay cho các đối tượng liều lĩnh giao khu đất vàng 2-4-6 Hai Bà Trưng, TP.HCM cho Sabeco Pearl và được hưởng ưu đãi thuê đất tới 50 năm trả tiền 1 lần; hay khu đất “vàng” rộng gần 5.000 m2, nằm tại số 8 – 12 Lê Duẩn, Quận 1 (TP.HCM) giao cho Công ty CP đầu tư Lavenue để thực hiện dự án mà không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất.
Điển hình như trong vụ vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí xảy ra tại Sabeco, khu đất 2-4-6 Hai Bà Trưng (quận 1, TPHCM) được sắp xếp giao cho Tổng công ty Sabeco (là DNNN thuộc Bộ Công Thương, vốn nhà nước chiếm 89,59%) để quản lý, sử dụng, đầu tư, xây dựng khách sạn 6 sao… và không được thành lập pháp nhân mới. Tuy nhiên ông Vũ Huy Hoàng vẫn chấp thuận chủ trương, chỉ đạo để bộ phận quản lý vốn nhà nước tại Sabeco triển khai thực hiện việc liên doanh, liên kết thành lập Công ty Sabeco Pearl trái với quy định.
Căn cứ ý kiến phê duyệt, chỉ đạo của ông Vũ Huy Hoàng, bà Hồ Thị Kim Thoa, ông Phan Đăng Tuất (Chủ tịch hội đồng quản trị) ký công văn số 374 kèm theo các văn bản chấp thuận của Bộ Công Thương đề nghị UBND TPHCM chấp thuận cho Sabeco Pearl được làm chủ đầu tư dự án, thực hiện nghĩa vụ tài chính và chuyển quyền sử dụng đất từ Tổng công ty Sabeco sang Công ty Sabeco Pearl.
Từ đó các sở, ngành thuộc UBND TPHCM tham mưu cho bị can Nguyễn Hữu Tín ký ban hành quyết định cho Sabeco Pearl thuê đất trái các quy định pháp luật.
Thứ ba, để tạo điều kiện cho những cá nhân, doanh nghiệp có thể tiếp cận và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai. Đặc biệt những cá nhân, doanh nghiệp có quỹ đất nhưng không có tài chính có thể kết hợp với những cá nhân doanh nghiệp có nguồn tài chính dồi dào nhưng lại không có quỹ đất cùng nhau phát triển sản xuất kinh doanh, gia tăng giá trị sử dụng nguồn lực đất đai. Luật đất đai cho phép sử dụng quyền sử dụng đất để góp vốn kinh doanh.
Khoản 3 Điều 10, Luật Đất đai quy định: Góp vốn bằng quyền sử dụng đất là một trong những cách thức chuyển giao quyền sử dụng đất từ người này sang người khác. Đồng thời, khoản 1 điều 99 cũng quy định rõ, người nhận góp vốn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Như vậy, tài sản là quyền sử dụng đất có thể dùng để góp vốn vào doanh nghiệp, quyền sử dụng đất đó được chuyển từ người góp vốn sang cho doanh nghiệp và trở thành tài sản của doanh nghiệp, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, đây lại chính là kẽ hở rất lớn để nhóm lợi ích biến đất công về tay của tư nhân với giá rẻ mạt, với chiêu thức phổ biến là qua con đường góp vốn thành lập những doanh nghiệp liên doanh công – tư, rồi thoái vốn bằng cách chuyển nhượng cổ phần.
Điều này có thể thấy rõ trong các vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”. Điển hình như trong vụ đất vàng 8-12 Lê Duẩn. Theo đó, khu đất 8-12 Lê Duẩn (quận 1, TPHCM) cũng khiến một phó chủ tịch UBND TPHCM khác là ông Nguyễn Thành Tài bị khởi tố. Khu đất này được xác lập sở hữu Nhà nước vào năm 1994 và giao cho Công ty Quản lý kinh doanh nhà ký hợp đồng cho bốn công ty của Bộ Công Thương thuê đất, trả tiền hằng năm.
Năm 2008, UBND TPHCM ra quyết định thu hồi nhà đất số 8-12 Lê Duẩn để thực hiện dự án xây dựng khách sạn cao cấp. Tuy nhiên, bốn doanh nghiệp này nợ tiền thuê, không chịu dời đi và có nhiều văn bản kiến nghị UBND, Thành ủy TPHCM và Bộ Công Thương đề nghị được tạo điều kiện mua chỉ định hoặc tham gia thực hiện dự án.
Dù kiến nghị nói trên không được UBND TPHCM đồng ý nhưng ông Nguyễn Thành Tài vẫn ký công văn chấp thuận chủ trương cho Công ty Quản lý kinh doanh nhà làm chủ đầu tư dự án và liên doanh (góp 50% vốn điều lệ), liên kết với bốn công ty đang thuê (góp 50%).
Tiếp đó, Công ty Quản lý kinh doanh nhà có công văn gửi UBND TP đề xuất cho sự hình thành tư cách pháp nhân mới (sau này là Công ty Lavenue) theo hình thức công ty cổ phần. Trong pháp nhân mới này bắt đầu xuất hiện thêm các nhà đầu tư mới với sự chấp thuận của ông Nguyễn Thành Tài. Trong đó, công ty Hoa Tháng Năm tham gia góp cùng Công ty Quản lý Kinh doanh nhà 30% vốn điều lệ; bốn công ty thuộc Bộ Công Thương bán lại 50% còn lại cho công ty Kinh Đô để cấn nợ.
Như vậy, Công ty Lavenue có tỷ lệ sở hữu cổ phần của Công ty Quản lý kinh doanh nhà 20%, Công ty Kinh Đô 50%, Công ty Hoa Tháng Năm 30%. Phần vốn góp của tư nhân đã chiếm đa số (80%) trong cơ cấu sở hữu này. Và cũng từ đây, dự án khách sạn cao cấp tại khu đất 8-12 Lê Duẩn chính thức rơi vào tay tư nhân.
Với chiêu thức này, đối tượng lợi dụng doanh nghiệp nhà nước có quỹ đất dồi dào thường bắt tay cùng doanh nghiệp tư nhân để thành lập những doanh nghiệp liên doanh (pháp nhân mới) với vốn góp là những khu đất vàng được nhà nước giao quản lý, khai thác và sử dụng. Đồng thời tận dụng chủ trương cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đất công dần ra khỏi doanh nghiệp nhà nước bằng con đường chuyển nhượng cổ phần lòng vòng về tay tư nhân. Như trong vụ 43ha đất Bình Dương; vụ Tổng Công ty Nông nghiệp Sài Gòn; vụ Sabeco…
Thứ tư, quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện giao đất để thực hiện dự án đặc biệt đối với các dự án BT cũng không hợp lý, không cụ thể, dẫn đến tình trạng chủ đầu tư không đủ năng lực triển khai.
Luật Đất đai năm 2013 chỉ có khoản 3 Điều 155 quy định về việc Nhà nước giao cho nhà đầu tư quản lý diện tích đất để thực hiện dự án. Ngoài ra không có quy định cụ thể nào về đất đai, loại đất, giá trị đất đai để trả cho nhà đầu tư khi thực hiện dự án BT. Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định thi hành chi tiết Luật Đất đai có riêng Điều 54 quy định về đất thực hiện dự án BT và BOT. Tuy nhiên, Nghị định này cũng chỉ quy định về việc nhà nước giao đất và chuyển giao đất, không hề có quy định gì về loại đất đem đổi và xác định giá trị đất đai đem đổi.
Như vậy, đang tồn tại một khoảng trống pháp lý rất lớn về dự án BT tại Luật Đất đai và văn bản hướng dẫn Luật này, trong khi nhiều văn bản khác về BT lại quy chiếu về việc thực hiện theo quy định của Luật Đất đai. Bên cạnh đó, quy định về thời điểm giao đất để thanh toán dự án BT và thời điểm giao dự án BT còn bất cập, không rõ ràng khiến việc thanh toán dự án bằng quỹ đất không đảm bảo nguyên tắc ngang giá. Chính điều này dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng trong việc giao "đất vàng" ở Nha Trang cho doanh nghiệp để làm dự án BT.
Khu "đất vàng" số 1 Trần Hưng Đạo, TP Nha Trang vốn là đất cơ quan Trường Chính trị tỉnh Khánh Hòa, nay đã thành trung tâm thương mại, nhà ở, khách sạn của doanh nghiệp.
Thứ năm, nhiều quy định pháp luật về định giá đất còn bộc lộ nhiều bất cập, chưa phù hợp thực tế. Theo đó, một trong những nguyên tắc định giá đất là phải “phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường” (điểm c, khoản 1, Điều 112) nhưng trên thực tế thực hiện thì hầu như lại thoát ly khỏi giá cả thị trường. Ngay từ khi thông qua Luật Đất đai năm 2013, Tổng Cục Quản lý đất đai thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ ra rằng, khung giá đất của Nhà nước chỉ bằng khoảng 20% khung giá đất thị trường. Tương tự như thế, khung giá đất của cấp tỉnh cũng chỉ bằng từ 30 đến 60% giá đất thị trường tại địa phương.
Đáng lưu ý, toàn bộ quy trình định giá đất đều do cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện. Mặc dù, Điều 115 và Điều 116 có đề cập đến tư vấn giá đất nhưng cũng chưa có quy định bảo đảm cho tổ chức tư vấn giá đất thực sự có vị trí độc lập… Do vậy, giá đất mang nặng tính “áp đặt”…
Những vấn đề cốt lõi cần sửa đối với Luật Đất đai
Từ thực tế nghiên cứu các đại án liên quan đến đất đai cho thấy, rất khó để ngăn ngừa hành vi tương tự xảy ra trong tương lai, nếu như không bịt được lỗ hổng của pháp luật. Điều này đặt ra nhu cầu bức thiết cần phải sửa đổi Luật Đất đai để bịt các lỗ hổng như đã phân tích ở trên. Theo chúng tôi, để bít được những lỗ hổng này thì việc sửa đổi bổ sung Luật Đất đai cần tập trung vào những vấn đề cốt lõi sau:
1. Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến quy hoạch sử dụng đất; cơ chế giao đất, cho thuê đất theo hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất và hình thức chỉ định; chuyển mục đích sử dụng đất nhằm… để đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật nói chung, sự đồng bộ, thống nhất giữa Luật đất đai với các luật liên quan như Luật quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Nhà ở….
2. Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến việc chuyển dịch đất đai như thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất; chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nhằm tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tiếp cận đất đai để tổ chức sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội nhưng đồng thời ngăn chặn được nhóm lợi ích lợi dụng để biến đất công thành tư.
3. Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến tài chính đất đai, giá đất nhằm một mặt giải quyết những ách tắc trong tổ chức thực hiện mặt khác khắc phục tình trạng lợi dụng trục lợi, tham nhũng từ đất đai…
Đinh Chiến– Văn Thư
Từ thực tiễn kê biên tài sản thi hành các đại án: Nhận diện bất cập và kiến nghị giải pháp khắc phục ?
(Pháp lý) – Kê biên tài sản là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo nhằm đảm bảo thi hành phần dân sự trong bản án hình sự. Tuy nhiên từ thực tiễn tố tụng và thi hành các đại án trong thời gian qua cho thấy pháp luật về kê biên tài sản đảm bảo THA đang bộc lộ sự bất cập, khiến cho việc thu hồi tài sản của Nhà nước do người phạm tội gây ra gặp rất nhiều khó khăn. Vậy những bất cập đó là gì và giải pháp nào để khắc phục ?
Trường Đại học Luật Huế: Hội thảo khoa học trực tuyến: “Hòa giải các tranh chấp dân sự và kinh doanh thương mại”
(Pháp lý) – Sáng nay 29-12, Trường Đại học Luật Huế phối hợp cùng Trung tâm Hòa giải thương mại Công Minh tổ chức Hội thảo khoa học trực tuyến về “Hòa giải các tranh chấp dân sự và kinh doanh thương mại”. Hội thảo đã thu hút hơn 100 đại biểu là các chuyên gia luật có học vị PGS, TS, ThS đang giảng dạy tại Trường Đại học Luật Huế, Trường Đại học Luật TPHCM, Học viện Hành chính quốc gia; và đang làm việc tại TAND các cấp và các văn phòng luật sư…
Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng
(Pháp lý) - Trong những năm gần đây, số vụ án tham nhũng bị khởi tố điều tra, truy tố và xét xử có chiều hướng gia tăng, với giá trị tài sản tham nhũng, thất thoát ngày càng lớn, gây thiệt hại nghiêm trọng cho Nhà nước. Quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc chứng minh và thu hồi tài sản bị tham nhũng.
Hai kẽ hở lớn trong Luật Giá và Luật Đấu thầu
(Pháp lý) – Nghiên cứu từ các vụ án vi phạm quy định về đấu thầu trong mua sắm thiết bị y tế bị cơ quan điều tra phát hiện và khởi tố thời gian qua, Tạp chí điện tử Pháp lý đã từng đăng tải một số bài viết phân tích và chỉ ra những lỗ hổng lớn trong 2 Luật quan trọng có liên quan – Luật Giá và Luật đầu thầu , đồng thời kiến nghị sửa luật để ngăn chặn hành vi thông đồng “thổi giá” từ các doanh nghiệp thẩm định giá…
Chế tài đối với pháp nhân thương mại phạm tội: Qui định của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam
(Pháp lý) – Bộ luật Hình sự năm 2015 của Việt Nam lần đầu qui định trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Theo đó, hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại được quy định tương đối phong phú như: phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn… Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực tiễn đã bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt nếu áp dụng chế tài đối với pháp nhân như đình chỉ hoạt động vĩnh viễn hoặc cấm kinh doanh …, sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động, các cá nhân, pháp nhân khác có liên quan đến pháp nhân thương mại phạm tội.
Vì vậy, nghiên cứu, tham khảo những qui định về hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội của một số nước trên thế giới cũng như các nước trong khu vực ASEAN, để có những kinh nghiệm pháp lý trong hoàn thiện chế định điều chỉnh, xử lý pháp nhân thương mại phạm tội ở VN.
Phạt tiền đối với pháp nhân là hình phạt duy nhất được áp dụng ở nhiều nước
Tại Anh, chế định TNHS của pháp nhân lần đầu tiên được ghi nhận trong Đạo luật hình sự do Ủy ban cải cách luật hình sự của Anh trình Nghị viện năm 1987.
Theo đó, pháp nhân chịu TNHS cùng một tư cách như cá nhân về những tội phạm theo chế độ trách nhiệm tuyệt đối và trách nhiệm thay thế; Pháp nhân cũng phải chịu TNHS đối với những tội phạm khác, nếu những tội phạm này được thực hiện bởi một trong những người có trách nhiệm kiểm tra, giám sát của pháp nhân và họ hoạt động trong khuôn khổ chức năng của pháp nhân với mức độ lỗi cần thiết.
Về chế tài áp dụng đối với pháp nhân phạm tội, Luật hình sự Anh quy định hình phạt chính áp dụng đối với pháp nhân phạm tội duy nhất là hình phạt tiền. Tuy nhiên, Luật hình sự Anh không quy định căn cứ quyết định hình phạt cũng như mức phạt tiền cụ thể cho từng tội phạm mà do tòa án xem xét quyết định trong các trường hợp cụ thể; nhưng thông thường, trong những trường hợp tổ chức và thể nhân cùng phải chịu TNHS, thì mức phạt đối với tổ chức cao hơn đối với thể nhân. Ngoài ra, trong một số trường hợp, cùng với phạt tiền, tòa án có thể thông báo công khai bản án như là một biện pháp hình sự bổ sung.
Nhiều nước trên thế giới coi phạt tiền là hình phạt duy nhất và hiệu quả nhất áp dụng đối với pháp nhân phạm tội
Tại Mỹ, đầu thế kỷ XX, các Toà án Hoa Kỳ đã áp dụng TNHS đối với pháp nhân phạm các loại tội có yếu tố ý định phạm tội và xác định những hành vi phạm tội của những cá nhân nhất định – những người quản lý mới có thể dẫn đến TNHS của pháp nhân.
Trong pháp luật hình sự hiện nay của Mỹ, về cơ bản, có bốn loại văn bản pháp luật ở cấp độ Liên bang đề cập đến việc đấu tranh chống hoạt động phi pháp của các tập đoàn bằng các chế tài pháp lý hình sự là: Các đạo luật chống độc quyền; Các đạo luật chống việc quảng cáo giả dối; Các đạo luật chống các vi phạm trong các quan hệ lao động và; Các đạo luật chống các vi phạm về quyền tác giả và các quy định về nhãn hiệu hàng hóa.
Ngoài ra, TNHS của pháp nhân còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác ở cấp độ Liên bang. Đặc biệt là Đạo luật về kiểm tra tình trạng phạm tội có tổ chức (năm 1970) và Đạo luật về tổ chức có tính chất tội phạm hoạt động thường xuyên…
Phạt tiền là hình phạt chủ yếu được áp dụng với pháp nhân phạm tội. Theo Luật về cải cách áp dụng hình phạt của Mỹ vào năm 1984, loại hình phạt áp dụng bởi tòa án liên bang của Mỹ, được dựa trên những khuyến nghị theo “Hướng dẫn áp dụng hình phạt” được soạn thảo bởi Ủy ban áp dụng hình phạt của Mỹ.
Theo khuyến nghị của Ủy ban áp dụng hình phạt đối với việc thi hành bản án của các tổ chức, tòa án trước tiên phải “buộc các tổ chức bồi thường mọi thiệt hại gây ra bởi hành động phạm pháp của mình” nhằm khôi phục toàn vẹn cho những người bị hại.
Toà án sẽ ra một lệnh buộc pháp nhân phạm tội phải bồi thường những thiệt hại mà pháp nhân gây ra cho nạn nhân. Toà án sẽ không ra lệnh buộc bồi thường nếu như số lượng nạn nhân quá lớn dẫn đến việc bồi thường là không khả thi hoặc việc xác định nguyên nhân và mức thiệt hại phức tạp và kéo dài thời gian tố tụng không cần thiết. Nếu tài sản của pháp nhân không đủ để thanh toán bồi thường và nộp tiền phạt thì nghĩa vụ bồi thường được ưu tiên trước.
Trong mọi trường hợp, khi áp dụng hình phạt tiền, Tòa án phải cân nhắc hai yếu tố – mức độ nghiêm trọng của tội phạm và lỗi của tổ chức. Yếu tố đầu tiên, “mức độ nghiêm trọng của tội phạm”, được xác định bằng cách tính toán lợi ích về tiền tệ, nhận được bởi các tổ chức do kết quả của những hành động bất hợp pháp và các thiệt hại gây ra cho người bị hại bởi những hành động bất hợp pháp.
Yếu tố thứ hai, “lỗi của tổ chức” được xác định dựa trên một số yếu tố khác như các biện pháp để phòng ngừa việc phát hiện và điều tra các hành động bất hợp pháp mà tổ chức đã thực hiện tính đến thời điểm thực hiện tội phạm; mức độ tham gia của một số loại nhân viên trong các hoạt động bất hợp pháp; hành động của tổ chức sau khi phạm tội; lịch sử hoạt động của tổ chức…
Ngoài ra, pháp nhân phạm tội còn có thể chịu hình phạt khác như: Quản chế, dịch vụ công ích… Theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, thời hạn quản chế đối với trọng tội từ 01 năm đến 05 năm, đối với trường hợp khác thì không quá 05 năm. Trong thời gian quản chế, pháp nhân không được: thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội nào.
Cũng tương tương tự, luật hình sự Australia quy định hình phạt duy nhất được áp dụng đối với tổ chức phạm tội cũng là hình phạt tiền. Đồng thời, mức phạt tiền không được quy định cụ thể mà do tòa án quyết định trong từng trường hợp cụ thể.
Chế tài hình sự đối với pháp nhân phạm tội tại Việt Nam so với một số nước ASEAN
Tại khu vực ASEAN, một số quốc gia như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines đều ghi nhận TNHS đối với pháp nhân trong Luật hình sự. Song, so với nhiều nước trên thế giới, hầu hết các nước này quy định cụ thể TNHS của pháp nhân trong các văn bản pháp luật chuyên ngành.
Như tại Singapore, quan điểm xử lý hình sự tổ chức phạm tội được thể hiện trong quy định về chủ thể của tội phạm của Bộ luật hình sự của Singapore. Theo giải thích của Bộ luật hình sự Singapore thì người phạm tội trong các quy định về chủ thể của tội phạm bao gồm công ty, hội hoặc cá nhân. Với quy định này, Bộ luật hình sự Singapore đã khẳng định chủ thể của tội phạm bao gồm cả cá nhân và tổ chức. Phù hợp với quy định này, nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành cũng quy định các hành vi phạm tội do tổ chức thực hiện.
Theo đó, hình phạt đối với các chủ thể phạm tội cũng được quy định cụ thể trong các văn bản luật chuyên ngành này. Hình phạt duy nhất được áp dụng đối với tổ chức là hình phạt tiền với mức tiền phạt thường được quy định cao gấp đôi hoặc gấp ba mức tiền phạt được áp dụng đối với cá nhân phạm tội tương ứng.
Ví dụ, Điều 4C Đạo luật về Ngân hàng quy định TNHS đối với người cản trở việc điều tra các vi phạm về ngân hàng, trong trường hợp cá nhân phạm tội thì bị phạt tiền đến 12.500 đô la hoặc phạt tù đến 12 tháng hoặc cả hai hình phạt đó… Trong trường hợp tổ chức phạm tội thì bị phạt đến 25.000 đô la.
Luật Kiểm soát xuất khẩu, nhập khẩu hoặc quá cảnh chất thải nguy hại của Singapore quy định hình phạt đối với các hành vi nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh trái phép chất thải nguy hại tại các Điều 25, 26 và 27. Theo đó, trường hợp chủ thể là cá nhân thì bị phạt tiền đến 100.000 đô la Singapore hoặc phạt tù không quá 2 năm hoặc bị áp dụng cả hai hình phạt đó; trường hợp chủ thể là pháp nhân thì bị phạt tiền đến 300.000 đô la Singapore…
Cũng tương tự Singapo, tại Thái Lan, Malaysia, TNHS của tổ chức được quy định chủ yếu trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Hình phạt được áp dụng duy nhất đối với pháp nhân phạm tội đều là hình phạt tiền.
Tuy nhiên, tại Indonesia và Philippines ngoài hình phạt chính là phạt tiền, tổ chức phạm tội còn còn có thể bi áp dụng các chế tài khác như: buộc đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh, đặt hoạt động kinh doanh dưới sự giám sát hành chính, công bố phán quyết của thẩm phán, rút giấy phép kinh doanh…
So với các nước láng giềng trong khu vực ASEAN, Việt Nam lần đầu thừa nhận TNHS của pháp nhân thương mại trong BLHS năm 2015. Theo đó, chế tài hình sự đối với pháp nhân phạm tội của Việt Nam tương đối phong phú như phạt tiền, đình chỉ hoạt động, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn…
Chế tài hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội tại VN gồm: phạt tiền, đình chỉ hoạt động, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn…
Theo quy định tại Điều 33 BLHS, hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội bao gồm: phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
Theo đó, khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại để quyết định hình phạt.
Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không được thấp hơn 50.000.000 đồng; đình chỉ hoạt động từ 6 tháng đến 3 năm hoặc bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động.
Ngoài ra, pháp nhân phạm tội còn có thể chịu các hình phạt bổ sung như: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định từ 1 năm đến 3 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật; Cấm huy động vốn; Phạt tiền (khi không áp dụng phạt tiền là hình phạt chính).
Tại Singapo, Thái Lan, Malaysia, TNHS của tổ chức được quy định chủ yếu trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Hình phạt được áp dụng duy nhất đối với pháp nhân phạm tội tại các nước này đều là hình phạt tiền.
Một số kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Có thể thấy, dù Việt Nam quy định hệ thống chế tài hình sự tương đối phong phú như: phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn… Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực tiễn thời gian qua phát sinh nhiều bất cập. Đặc biệt nếu áp dụng một số chế tài với pháp nhân như đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, cấm kinh doanh,….sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, các cá nhân, pháp nhân có liên quan khác… Bởi, trong một số trường hợp, nếu đình chỉ hoạt động đối với pháp nhân thương mại thì có thể khiến hàng trăm lao động thậm chí hàng nghìn lao động rơi vào cảnh thất nghiệp. Ngoài ra, khi áp dụng những hình phạt này còn có thể gây ra nhiều tác động tiêu cực khác.
Do đó, chúng ta cần cân nhắc khi áp dụng hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Có thể học hỏi kinh nghiệm của một số nước trong việc áp dụng một số hình phạt theo hướng thay vì chấm dứt sự tồn tại của một pháp nhân, sử dụng những chế tài giúp cho pháp nhân cải tổ nội bộ, tuân thủ pháp luật và thực hiện hành động phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội như hình phạt quản chế, giám sát hành chính, tăng cường áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, tăng hình phạt tiền…
Văn Chiến
Một số nội dung mới của các tội phạm khác về chức vụ theo Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
TÓM TẮT:
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế toàn diện về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hoóa-xã hội… Bên cạnh những lợi ích việc phát triển nền kinh tế thị trường đem lại, trong thời gian qua, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật ở nước ta đã có chiều hướng gia tăng và diễn biến hết sức phức tạp, trong đó phải kể đến tội phạm khác về chức vụ. Bài viết phân tích một số nội dung mới của các tội phạm khác về chức vụ theo Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có những sửa đổi, bổ sung đối với các tội phạm khác về chức vụ so với BLHS năm 1999, trên cơ sở đó, góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng, chức vụ tại Việt Nam.
Từ khóa: Các tội phạm khác về chức vụ, Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017.
1. Tình hình tội phạm chức vụ
Trong những năm qua, tình hình tội phạm tham nhũng, chức vụ vẫn diễn biến hết sức phức tạp. Tình trạng nhũng nhiễu, hối lộ, chạy dự án trong khu vực công còn nhiều với chiều hướng gia tăng, tính chất tham nhũng ngày càng phức tạp. Các đối tượng phạm tội đã sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi hơn, phạm vi, tính có tổ chức của các vụ việc, vụ án tham nhũng rõ nét hơn. Một số vụ án tham nhũng gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm thất thoát lớn tài sản của Nhà nước. Một số vụ tham nhũng có yếu tố nước ngoài, phần nào ảnh hưởng đến nhìn nhận của quốc tế về tình hình tham nhũng ở Việt Nam.
Tội phạm chức vụ là một loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến lợi ích quốc gia và sự thụ hưởng các quyền và lợi ích của người nghèo. Đây cũng là một trong số những nguyên nhân cơ bản dẫn đến gia tăng sự bất công trong xã hội, làm xói mòn niềm tin của người dân đối với Nhà nước. Ngoài ra, trong lĩnh vực đối ngoại và hợp tác quốc tế, sự gia tăng các tội phạm khác về chức vụ làm suy giảm niềm tin của những quốc gia, đối tác nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, từ đó cản trở hoạt động đối ngoại và hạn chế các nguồn đầu tư phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
2. Một số nội dung mới của BLHS 2015 về tội phạm chức vụ
Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 các tội phạm về chức vụ theo hướng: mở rộng khái niệm tội phạm về chức vụ; sửa đổi, bổ sung một số cấu thành tội phạm cụ thể; quy định hành vi đưa hối lộ công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công.
2.1. Mở rộng khái niệm tội phạm về chức vụ
Theo quy định tại Điều 277 BLHS 1999, tội phạm về chức vụ là “những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ”. Việc định nghĩa khái niệm tội phạm chức vụ như trước đây đã xác định chủ thể thực hiện hành vi phạm tội chỉ là người có chức vụ quyền hạn khi thực hiện nhiệm vụ công được cơ quan, tổ chức phân công. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 352 BLHS 2015 đã điều chỉnh khái niệm tội phạm khác về chức vụ theo hướng mở rộng, bao gồm cả một số hành vi tội phạm về chức vụ xảy ra trong khu vực tư (ngoài Nhà nước) như đưa hối lộ, môi giới hối lộ.
Mặc dù thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm đã cho thấy sự bất cập trong chính sách pháp luật trong việc xử lý đối với các hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi do có sự phân biệt giữa khu vực Nhà nước và khu vực tư. Những hành vi tương tự như đưa hối lộ, môi giới hối lộ nhưng diễn ra trong khu vực tư cũng không thể xử lý vì không có quy định pháp luật cụ thể. Bên cạnh đó, xuất phát từ thực tiễn về việc xử lý hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ đối với tài sản của doanh nghiệp có phần vốn góp của nhà nước, trong đó có sự đan xen về sở hữu mà ở nhiều trường hợp không thể tách biệt giữa tài sản, phần vốn góp của tư nhân, việc xác định xử lý trách nhiệm của người có chức vụ, quyền hạn trong loại hình doanh nghiệp này rất khó khăn. BLHS năm 1999 chỉ dừng lại đối với các hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ trong lĩnh vực công mà chưa ghi nhận việc xử lý những hành vi phạm tội tương tự trong lĩnh vực tư.
Trong bối cảnh ngành kinh tế tư nhân đang ngày càng phát triển và giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân, để giải quyết được những bất cập nêu trên cũng như đáp ứng những đòi hỏi nội tại của đất nước ta trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và các cam kết nội luật hóa các quy định của Công ước Liên hiệp quốc về chống tham những thì việc hình sự hóa các hành vi tham nhũng trong khu vực tư là hết sức cần thiết. Trên cơ sở đó, cần xác định người có chức vụ quyền hạn thuộc các thành phần ngoài Nhà nước đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn này thực hiện hành vị phạm tội vì vụ lợi (ví dụ: hành vi nhận tiền của hối lộ của người có thẩm quyền trong lĩnh vực tư nhân) phải được xác định là những hành vi tham nhũng để có chính sách xử lý thống nhất và phù hợp.
2.2. Sửa đổi, bổ sung một số cấu thành tội phạm cụ thể
Theo quy định tại mục b Điều 15 Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, yếu tố khách quan bắt buộc trong cấu thành tội nhận hối lộ là hành vi đòi hỏi hoặc chấp nhận của hối lộ và sự liên hệ giữa những hành vi này với hành xử của công chức khi thi hành công vụ. Việc đòi hỏi hoặc chấp nhận có thể được do công chức trực tiếp thực hiện hoặc qua trung gian. Lợi ích không chính đáng có thể dành cho chính bản thân công chức hoặc cho người khác (ví dụ: họ hàng người thân của công chức đó, hoặc có thể dành cho một thực tế thể khác). Về chủ quan, yếu tố bắt buộc là việc cố ý đòi hỏi hoặc chấp nhận lợi ích không chính đáng với mục đích thay đổi hành xử của một người trong quá trình người đó thực hiện trách nhiệm chính thức. Bên cạnh đó, Công ước cũng quy định “của hối lộ” là bất kỳ lợi ích nào, có thể là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất.
Theo quy định tại Điều 279 BLHS 1999 thì hành vi của người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn là trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ 2 triệu đồng. Tuy nhiên, BLHS hiện hành xác định hành vi “đòi hối lộ” là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự tại khoản 2 mà không phải là một hành vi cấu thành tội phạm độc lập như quy định của Công ước. Theo quy định của BLHS 1999, “của hối lộ” chỉ bao gồm tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Tuy nhiên nhằm đáp ứng yêu cầu của Công ước và bảo đảm xử lý nghiêm minh các hành vi nhũng nhiễu, đòi hối lộ kể cả khi người phạm tội chưa nhận tiền hối lộ hoặc lợi ích khác và bảo đảm sự thống nhất về kỹ thuật lập pháp với quy định về tội Nhận hối lộ, BLHS năm 2015 sửa đổi Điều 289 của BLHS năm 1999 theo hướng cụ thể hóa hành vi, cụ thể: “Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ…”. “Lợi ích phi vật chất” cũng được Bộ luật bổ sung tại các điều luật liên quan - đây là một nội dung hiện nay vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên, tại Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về các tội phạm tham nhũng, chức vụ và việc xét xử vụ án tham nhũng, chức vụ của Hội đồng thẩm phán TANDTC, xác định những lợi ích không phải lợi ích vật chất như: các danh hiệu, giải thưởng của Nhà nước, cơ quan, tổ chức; tạo điều kiện để người thân đi du học, tham quan; được quan hệ tình dục; được bầu, bổ nhiệm chức vụ; được nâng điểm thi; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài…) mà người phạm tội có được hoặc sử dụng.
2.3. Quy định hành vi đưa hối lộ công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công
Theo quy định của Công ước, chủ thể của các hành vi tham nhũng trước hết là “công chức” và khái niệm công chức trong phạm vi điều chỉnh của Công ước là tương đối toàn diện, bao gồm cả hai đối tượng: (1) công chức của quốc gia; (2) công chức của nước ngoài và công chức làm việc tại các tổ chức quốc tế công. Nhóm đối tượng này chủ yếu được đề cập dưới dạng là chủ thể của hành vi thụ động hối lộ theo quy định tại Điều 16 của Công ước. BLHS năm 1999 không có quy định về hành vi phạm tội hối lộ công chức nước ngoài hoặc công chức của tổ chức quốc tế công theo quy định của Công ước. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các quốc gia trên thế giới, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta thông qua các hoạt động hợp tác, viện trợ, tài trợ,… Việc một người vì vụ lợi mà đưa hối lộ công chức nước ngoài hay tổ chức quốc tế công để dành những ưu thế trong các hoạt động nêu trên thực tế đã xảy ra. Vì vậy, để đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng trong xã hội và giữ gìn mối quan hệ với các quốc gia, tổ chức quốc tế; việc bổ sung hành vi đưa hối lộ công chức nước ngoài hay công chức của tổ chức quốc tế công là cần thiết.
BLHS năm 2015 đã bổ sung hành vi đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức làm việc tại các tổ chức quốc tế công tại Điều 289 BLHS năm 1999 về tội đưa hối lộ theo hướng chỉ rõ đối tượng được đưa hối lộ, bao gồm cả công chức nước ngoài, công chức làm việc tại các tổ chức quốc tế công (khoản 6 Điều 364 BLHS năm 2015).
BLHS năm 2015 đã cơ bản thể chế hóa được những quan điểm, chủ trương đổi mới của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật hình sự, cải cách tư pháp đối với các tội phạm tham nhũng chức vụ. Theo đó, thể chế hóa đầy đủ, toàn diện chủ trương "Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác" được đề cập tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; hay "Sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng tăng hình thức phạt tiền, miễn hoặc giảm hình phạt khác đối với những đối tượng có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ động khai báo, khắc phục hậu quả" tại Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Có thể nói, BLHS 2015 đã tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các điều luật hiện hành trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng, chức vụ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của đất nước cũng như đáp ứng các yêu cầu nội luật hóa Công ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Chương 23, Mục 2: Các tội khác về chức vụ (Điều 360 - Điều 366).
Đào Lệ Thu (2018). Điểm mới về các tội phạm chức vụ trong BLHS 2015. Tạp chí Tòa án (1/6/2018).
Ban soạn thảo Bộ luật Hình sự sửa đổi (2015)), Bản thuyết minh chi tiết về Dự thảo BLHS (sửa đổi), Hà Nội, tháng 04/2015.
Phan Thị Bích Hiền (2020). Tìm hiểu về khái niệm “người có chức vụ” và “lợi dụng chức vụ để phạm tội” trong Luật Hình sự Việt Nam. https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/162.
Theo tapchicongthuong.vn
Nguồn bài viết: http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/mot-so-noi-dung-moi-cua-cac-toi-pham-khac-ve-chuc-vu-theo-bo-luat-hinh-su-nam-2015-sua-doi-bo-sung-nam-2017-77018.htm
Kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay theo pháp luật hải quan và một số giải pháp nâng cao hiệu quả để hội nhập kinh tế quốc tế
(Pháp Lý) - Trong bối cảnh liên kết thương mại toàn cầu càng rộng mở, việc ban hành các quy định về kiểm soát tên hàng hóa đối với hoạt động nhập khẩu vô cùng quan trọng. Yêu cầu hài hòa pháp luật trong nước và quốc tế, tạo môi trường pháp lý an toàn, thúc đẩy sự giao thương, đồng thời bảo đảm an ninh kinh tế nội địa là cần thiết.
Bài viết “Kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay theo pháp luật hải quan – Một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế” của TS. Trần Viết Long – Giảng viên khoa Luật Quốc tế (Trường Đại học Luật – Đại học Huế) sẽ góp phần làm rõ các vấn đề lý luận, thực tiễn về kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay theo pháp luật hải quan; đồng thời đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Pháp lý trân trọng đăng tải.
Vai trò và một số yêu cầu đặt ra khi kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu theo pháp luật hải quan
Có thể hiểu kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu theo pháp luật hải quan là việc sử dụng các phương thức, biện pháp nghiệp vụ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm kiểm tra, giám sát và các cách thức khác đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm đánh giá sự tuân thủ, sự phù hợp của tên hàng hóa theo quy định của pháp luật hải quan.
Chiều 19/7/2020, Tổng cục Hải quan tổ chức họp báo chuyên đề về công tác đấu tranh chống gian lận về xuất xứ của ngành Hải quan
Theo đó, kiểm soát hàng hóa nhập khẩu là hoạt động thường xuyên và có tính chặt chẽ trong hội nhập kinh tế quốc tế, thể hiện qua các vai trò như sau:
Một là, bảo đảm được sự điều chỉnh của pháp luật và chính sách quản lý trong thực thi kiểm soát hàng hóa nhập khẩu qua biên giới. Việc lưu thông hàng hóa giữa các nước có thể thuận tiện hoặc hạn chế tùy theo chính sách thương mại quốc gia, hệ thống pháp lý và thực thi cam kết thương mại quốc tế. Kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu sẽ tác động tích cực đối với cơ quan có thẩm quyền trong quá trình đối chiếu, xác định danh mục tên hàng hóa, thực hiện việc áp thuế, so sánh, đối chiếu hàng hóa vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, trị giá hải quan, quy tắc xuất xứ hàng hóa nhập khẩu. Mặt khác, xác định loại hàng nhập khẩu qua đó đối chiếu với chính sách quản lý mặt hàng để xác định rõ với hàng hóa đó có bị cấm xuất khẩu, nhập khẩu không hay thuộc loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện.
Hai là, kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu giúp nhà nước rà soát hệ thống danh mục các hàng hóa nhập khẩu đối với chính sách quản lý mặt hàng. Từ đó ban hành các quy định pháp luật phù hợp, thiết thực trong quá trình kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu. Đồng thời, bổ sung tên hàng hóa mới vào danh mục hàng hóa theo quy định của pháp luật để xác định mức thuế, chính sách ưu đãi về thuế và thống kê xuất nhập khẩu khi hàng hóa nhập khẩu qua biên giới.
Ba là, kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu qua biên giới tạo ra sự minh bạch, công bằng đối với doanh nghiệp, xây dựng được niềm tin cho cộng đồng thương nhân. Mặt khác, kiểm soát tên hàng giúp nhà nước dễ dàng phân loại hàng hóa, tránh nhập khẩu các hàng hóa nằm trong danh mục cấm nhập khẩu, hàng hóa có nguy cơ ảnh hưởng cao đến sức khỏe, môi trường và các hành vi vi phạm pháp luật khác
Kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu theo pháp luật hải quan phải đảm bảo được các yêu cầu cơ bản, cụ thể:
Thứ nhất, kiểm tra thông tin mô tả rõ ràng tên hàng, đầy đủ thành phần, hàm lượng, tính chất, cấu tạo, đặc điểm và công dụng, đáp ứng các tiêu chí về tên gọi, mô tả hàng hóa tại danh mục hàng hóa nhập khẩu
Thứ hai, đối chiếu tên hàng khai báo với nội dung chú giải phần, chương, phân chương, nhóm, phân nhóm liên quan tại danh mục hàng hóa nhập khẩu; tài liệu kỹ thuật, chứng từ khác liên quan đến hàng hóa tại hồ sơ hải quan.
Thứ ba, quá trình kiểm soát tên hàng phải được thực hiện thường xuyên, liên tục và được thực hiện bởi quy trình, nghiệp vụ chặt chẽ. Kiểm soát phải được đa dạng, linh động thực hiện tại các biên giới hải quan và các địa điểm theo quy định của pháp luật, hạn chế sự tác động của kiểm soát trực tiếp, tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật, quản lý rủi ro và kiểm tra sau thông quan.
Thứ tư, kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu qua biên giới phải đảm bảo sự thuận lợi cho doanh nghiệp thực thi pháp luật hải quan, tạo điều kiện kiểm soát nhanh để thuận tiện cho doanh nghiệp chấp hành tốt và xử lý hiệu quả doanh nghiệp vi phạm.
Kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay theo pháp luật hải quan
Điểm a, khoản 1 Điều 24 Thông tư số 38/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về nội dung kiểm tra tên hàng, mã số hàng hóa khi kiểm tra hồ sơ hải quan là: “Kiểm tra nội dung khai và kiểm tra tính chính xác về tên hàng, mã số hàng hóa, mức thuế khai trên tờ khai hải quan với các thông tin ghi trên các chứng từ trong hồ sơ hải quan. Việc xử lý kết quả kiểm tra được chia ra 3 trường hợp:
1) Trường hợp xác định người khai hải quan khai báo tên hàng, mã số hàng hóa, mức thuế rõ ràng, đầy đủ, không có sự sai lệch về tên hàng với các thông tin ghi trên các chứng từ trong bộ hồ sơ hải quan thì cơ quan hải quan chấp nhận nội dung khai về tên hàng, mã số hàng hóa và mức thuế của người khai hải quan;
2) Trường hợp đủ căn cứ để xác định người khai hải quan khai không đúng tên hàng, mã số hàng hóa, mức thuế thì hướng dẫn và yêu cầu người khai hải quan khai bổ sung theo quy định và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Trường hợp người khai hải quan không thực hiện khai bổ sung thì cơ quan hải quan xác định lại mã số hàng hóa, mức thuế và thực hiện ấn định thuế, đồng thời, tùy theo mức độ vi phạm thì xử lý theo quy định của pháp luật và thực hiện cập nhật kết quả kiểm tra vào cơ sở dữ liệu, thông quan hàng hóa sau khi người khai hải quan nộp đủ tiền thuế, tiền phạt (nếu có) theo quy định;
3) Trường hợp phát hiện thông tin khai báo về tên hàng, mô tả hàng hóa chưa phù hợp với mã số hàng hóa, hoặc sai lệch giữa các thông tin trên chứng từ thuộc bộ hồ sơ hải quan và thông tin khai trên tờ khai hải quan nhưng chưa đủ căn cứ để xác định tên hàng, mã số hàng hóa, mức thuế thì yêu cầu người khai hải quan nộp bổ sung tài liệu kỹ thuật hoặc hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc bản phân tích thành phần sản phẩm.
Qua kiểm tra các chứng từ nộp bổ sung, nếu cơ quan hải quan có đủ cơ sở xác định người khai hải quan khai không đúng tên hàng, mã số hàng hóa, mức thuế thì hướng dẫn người khai hải quan khai bổ sung. Trường hợp người khai hải quan không nộp được chứng từ theo yêu cầu của cơ quan hải quan hoặc qua kiểm tra các chứng từ, cơ quan hải quan chưa đủ cơ sở để xác định tên hàng, mã số hàng hóa, mức thuế thì thực hiện lấy mẫu phân tích, giám định theo quy định về phân loại hàng hóa, phân tích để phân loại hàng hóa, phân tích để kiểm tra chất lượng, kiểm tra an toàn thực phẩm đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu hoặc báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định kiểm tra thực tế hàng hóa.
Nội dung kiểm tra tên hàng khi kiểm tra thực tế là: “Kiểm tra nội dung khai và kiểm tra tính chính xác về tên hàng… trên tờ khai hải quan với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu”.
Điểm a khoản 2 Điều 24 Thông tư số 38/2015/TT-BTC quy định: “Khi kiểm tra thực tế hàng hóa, công chức hải quan phải xác định tên hàng… theo các tiêu chí nêu trong Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam, Biểu thuế áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu”.
Điểm b khoản 2 Điều 24 Thông tư số 38/2015/TT-BTC quy định về xử lý kết quả kiểm tra thực tế hàng hóa được quy định như sau:
“1) Trường hợp xác định không có sự sai lệch về tên hàng, mã số hàng hóa khai trên tờ khai hải quan so với hàng hóa thực tế xuất khẩu, nhập khẩu; không có sự sai lệch về mức thuế với các Biểu thuế áp dụng có hiệu lực tại thời điểm kiểm tra, cơ quan hải quan chấp nhận nội dung khai về tên hàng, mã số hàng hóa và mức thuế của người khai hải quan;
2) Trường hợp đủ căn cứ để xác định người khai hải quan khai không đúng tên hàng, mã số hàng hóa, mức thuế thì hướng dẫn và yêu cầu người khai hải quan khai bổ sung theo quy định tại Điều 20 Thông tư này và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Trường hợp người khai hải quan không thực hiện khai bổ sung thì cơ quan hải quan xác định lại mã số hàng hóa, mức thuế và thực hiện ấn định thuế, đồng thời, tùy theo mức độ vi phạm giữa nội dung khai hải quan và thực tế kiểm tra để thực hiện xử lý theo quy định của pháp luật và cập nhật kết quả kiểm tra vào cơ sở dữ liệu, thông quan hàng hóa sau khi người khai hải quan nộp đủ tiền thuế, tiền phạt (nếu có) theo quy định;
3) Trường hợp không thể xác định được chính xác tên hàng, mã số hàng hóa theo các tiêu chí trong Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam, Biểu thuế áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, công chức hải quan cùng người khai hải quan lấy mẫu để thực hiện phân tích, giám định theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính về phân loại hàng hóa, phân tích để phân loại hàng hóa, phân tích để kiểm tra chất lượng, kiểm tra an toàn thực phẩm đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu”.
Như vậy, với quy định trên, tên hàng hóa đã được quy định trong văn bản pháp luật hải quan trong các trường hợp cụ thể nhất định.
Kiểm soát hàng hóa nhập khẩu là hoạt động thường xuyên và có tính chặt chẽ trong hội nhập kinh tế quốc tế của lực lượng Hải quan. ( ảnh minh họa)
Bất cập kiểm soát tên hàng ở Việt Nam hiện nay và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
Thứ nhất, tình trạng doanh nghiệp không khai hoặc khai sai về tên hàng trong danh mục hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam, khai không đầy đủ tên hàng gây ra sự nhầm lẫn, khó hoặc phân biệt sai hàng hóa này với hàng hóa khác còn tồn tại bất cập.
Thứ hai, tính trạng doanh nghiệp lợi dụng sự bất cập trong quy định kiểm tra tên hàng hóa để thực hiện hành vi khai báo hàng hóa sai tên so với thực tế nhập khẩu.
Thứ ba, doanh nghiệp lợi dụng sự đa dạng hàng hóa nhập khẩu qua biên giới không khai báo tên hàng khi thực hiện các thủ tục và hoạt động nhập khẩu đối với hàng hóa.
Từ những bất cập trên, cần có một số giải pháp nâng cao hiệu quả, cụ thể:
Một là, thực hiện hiệu quả việc nội luật hóa, hài hòa hóa pháp luật để đồng bộ với các quy định pháp lý quốc tế liên quan đến tên hàng hóa. Tham khảo, sửa đổi các quy định phù hợp với tiêu chuẩn tại Công ước Kyoto sửa đổi, phù hợp với chính sách và chủ trương quản lý của Đảng và Nhà nước.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện quy định pháp lý và quản lý đối với kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu theo pháp luật Việt Nam như: cập nhật đầy đủ thông tin danh mục tên hàng hóa cụ thể; hệ thống thông tin tên hàng liên thông, tích hợp. Nhận diện và đưa vào danh mục các mặt hàng có nguy cơ gian lận về kê khai tên khi nhập khẩu, tăng cường biện pháp quản lý rủi ro đối với doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm hàng nhập khẩu từ một số quốc gia có khả nghi vi phạm để đưa vào diện kiểm soát phòng ngừa hiệu quả.
Ba là, đẩy mạnh việc xác định chi tiết về hàng hóa, quy định có tính ràng buộc pháp lý đối với tiêu chí quản lý tên hàng trong danh mục cơ sở dữ liệu quốc gia. Xác định kịp thời tên hàng hóa nhập khẩu mới, bổ sung trong danh mục quản lý… nhằm hạn chế gian lận về tên hàng, vi phạm quy định của pháp luật trong công tác thực thi pháp luật về kiểm soát hàng hóa nhập khẩu.
Bốn là, tuyên truyền đối với các doanh nghiệp thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa tuân thủ, nắm bắt các quy định về kiểm soát tên hàng hóa xuất nhập khẩu; quy định chế tài cao hơn đối với doanh nghiệp vi phạm về việc kê khai tên hàng hóa nhập khẩu qua biên giới nhằm hạn chế các hành vi gian lận thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng như hiện nay.
Năm là, đẩy mạnh áp dụng phương pháp kiểm soát tên hàng hiện đại, quản lý rủi ro, hải quan điện tử. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, khoa học công nghệ để cải cách thủ tục hành chính để thu thập, giải quyết, xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu qua biên giới theo pháp luật hải quan.
Như vậy, “Kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay theo pháp luật hải quan – Một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế” đã thể hiện tầm quan trọng đối với việc thực hiện pháp luật hải quan đối với kiểm soát tên hàng hóa nhập khẩu qua biên giới ở Việt Nam hiện nay trong liên kết và thực hiện thương mại toàn cầu. Các phân tích, đánh giá thực trạng và giải pháp đưa ra sẽ là cơ sở khoa học phần nào tác thiết lập nhận thức về lý luận, pháp luật và thực tiễn đối với hoạt động quản lý hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
TS. Trần Viết Long
( Trường ĐH Luật, Đại học Huế)