(Pháp lý) - Luật Doanh nghiệp sửa đổi năm 2020 ( có hiệu lực từ năm 2021) có nhiều qui định mới điều chỉnh hoạt động doanh nghiệp. Theo đó, Luật định nghĩa lại về doanh nghiệp nhà nước ; qui định rõ 9 đối tượng không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp ; qui định rõ một số quyền và nghĩa vụ của DN. Đặc biệt “ hộ kinh doanh” chưa được luật hóa trong Luật này.
Định nghĩa lại về Doanh nghiệp Nhà nước
Trước đó khái niệm DNNN nhận được nhiều ý kiến khác nhau . Trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình trước khi Quốc hội thông qua, chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết "một số ý kiến cho rằng khái niệm DNNN như tại dự thảo luật (doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ) là chưa phù hợp". Tuy vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích rằng "quy định DNNN gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết như dự thảo luật nhằm thể chế hóa chủ trương về tỉ lệ cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước theo Nghị quyết Trung ương 12 (khóa XII) về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN".
"Dự thảo luật đã sửa đổi khái niệm DNNN theo nguyên tắc phân chia các loại doanh nghiệp có sở hữu nhà nước theo mức độ khác nhau, mỗi loại hình doanh nghiệp có quy định về tổ chức quản trị phù hợp để nâng cao hiệu lực quản trị, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, bảo đảm bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác", ông Vũ Hồng Thanh khẳng định.
Theo đó, điều 88 của Luật quy định về DNNN như sau:
1. Doanh nghiệp nhà nước được tổ chức quản lý dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, bao gồm: a) Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; b) Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết, trừ doanh nghiệp quy định tại điểm a khoản 1 điều này.
2. Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ theo quy định tại điểm a khoản 1 điều này bao gồm: a) Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ - công ty con; b) Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
3. Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định tại điểm b khoản 1 điều này bao gồm: a) Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ - công ty con; b) Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.
9 đối tượng không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp
Theo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua quy định rõ những tổ chức, cá nhân không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam, bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức;
Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc quản lý tại doanh nghiệp nhà nước;
Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 88 của Luật này, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;
Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; tổ chức không có tư cách pháp nhân;
Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật Phòng, chống tham nhũng.
Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh;
Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Tỉ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông phổ thông là 5%.
Về quyền của cổ đông phổ thông (Điều 115), có ý kiến cho rằng, không nên quy định giảm tỉ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông phổ thông. Việc giảm tỉ lệ sở hữu của cổ đông phổ thông sẽ dẫn đến có nhiều cổ đông nhỏ được can thiệp vào hoạt động quản trị, điều hành sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó có thể ảnh hưởng đến việc bảo mật thông tin của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền lợi của cổ đông nhỏ lẻ, đề nghị quy định trong dự thảo Luật về trách nhiệm công khai thông tin của cổ đông.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, việc quy định cổ đông có tỷ lệ sở hữu cổ phần phổ thông thấp hơn được thực hiện các quyền quy định tại dự thảo Luật là nhằm bảo vệ quyền của cổ đông thiểu số và nhóm cổ đông trong doanh nghiệp. Đây là nội dung quan trọng quy định về khung quản trị doanh nghiệp. Việc quy định theo hướng trên cũng sẽ góp phần quan trọng trong thu hút các nguồn lực đầu tư vào doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để phù hợp và thống nhất với khái niệm cổ đông lớn quy định trong Luật Chứng khoán, mức tỷ lệ sở hữu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông để thực hiện một số quyền của cổ đông phổ thông cần bảo đảm hài hòa quyền, lợi ích hợp lý của các cổ đông thiểu số, nhóm cổ đông trong doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tránh sự thay đổi quá lớn, có thể gây khó khăn trong quản trị, quản lý bí quyết công nghệ, kinh doanh của doanh nghiệp; phù hợp với thực trạng quản trị và bối cảnh của nước ta, tương thích với mức tỷ lệ phổ biến ở nhiều nước.
Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như dự thảo Luật về tỉ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông phổ thông là 5%.
Đối tượng được mua và chuyển nhượng trái phiếu chỉ giới hạn cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp
Về chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty không đại chúng (Điều 128), có ý kiến đề nghị làm rõ đối tượng được mua và chuyển nhượng trái phiếu chỉ giới hạn cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp hay cần mở rộng cho cả nhà đầu tư cá nhân hoặc tổ chức khác.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp thời gian vừa qua có sự phát triển nhanh và chuyển dịch dần kênh huy động vốn từ tín dụng ngân hàng sang phát hành trái phiếu doanh nghiệp, tuy nhiên còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt khi các nhà đầu tư cá nhân nhỏ, lẻ đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ có ít thông tin và khả năng phân tích, đánh giá rủi ro hoặc khi các doanh nghiệp lạm dụng, triển khai các hình thức huy động vốn trái phiếu thiếu minh bạch sẽ gây rủi ro cho các nhà đầu tư.
Để hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư mua trái phiếu và hạn chế doanh nghiệp lạm dụng phương thức này huy động vốn, pháp luật thường hạn chế đối tượng mua trái phiếu riêng lẻ là các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và giới hạn việc chuyển nhượng trái phiếu riêng lẻ giữa các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Quy định hạn chế này không ảnh hưởng đến quyền của các nhà đầu tư khác không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và lợi ích của doanh nghiệp vì doanh nghiệp hoàn toàn có thể phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn từ nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp. Nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp có thể ủy thác đầu tư trái phiếu riêng lẻ thông qua nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
Do vậy, dự thảo Luật quy định đối tượng được mua và chuyển nhượng trái phiếu chỉ giới hạn cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cần thiết, phù hợp với Luật Chứng khoán và thông lệ phổ biến.
Luật chỉ quy định việc chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn đối với cá nhân cho công ty. Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sở hữu đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển nhượng sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty theo quy định của pháp luật (Điều 35).
Do đó, khi thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn thì phải tuân thủ quy định bao gồm cả quy định về chuyển quyền sở hữu đối với tài sản có sở hữu chung, như quyền sử dụng đất, tài sản có đăng ký… Vì vậy, nội dung về chuyển quyền sở hữu đối với tài sản chung thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về dân sự và pháp luật khác có liên quan, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật DN
Sửa đổi cho rõ một số quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
Về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp (Điều 7 và Điều 8), một số ý kiến cho rằng, khoản 1 Điều 7 quy định: “tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm” và điểm a khoản 1 Điều 27 Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy định: “ngành, nghề đăng ký kinh doanh không bị cấm đầu tư, kinh doanh”. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, doanh nghiệp vẫn phải đăng ký chi tiết những ngành, nghề đăng ký kinh doanh với Cơ quan đăng ký kinh doanh. Do đó, đề nghị bổ sung nội dung này theo hướng doanh nghiệp không cần phải đăng ký ngành, nghề kinh doanh mà pháp luật không quy định phải có điều kiện.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Việc quy định doanh nghiệp gửi thông tin về ngành, nghề kinh doanh cho Cơ quan đăng ký kinh doanh không hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp được quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Việc gửi thông tin này chỉ là thủ tục thông báo cho Cơ quan đăng ký kinh doanh để ghi nhận thông tin về doanh nghiệp vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp mà không phải là thủ tục đăng ký ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, quy định này cũng là cơ sở để cơ quan thuế phân cấp quản lý về thuế và xác định mức ưu đãi thuế cho doanh nghiệp.
Có ý kiến đề nghị bổ sung một khoản tại Điều 8 quy định về nghĩa vụ của doanh nghiệp, cụ thể như sau: "Trường hợp doanh nghiệp có dự án sử dụng đất tại đơn vị hành chính cấp tỉnh khác nơi có trụ sở chính thì phải thành lập pháp nhân và thực hiện nghĩa vụ kê khai nộp thuế tại khu vực đó" nhằm bảo đảm nguồn lực cho địa phương nơi có dự án sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và bảo đảm đồng bộ với Luật Quản lý thuế.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp và Luật Doanh nghiệp là không hạn chế các doanh nghiệp trong lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh và không hạn chế phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam và quốc tế. Việc lựa chọn hình thức kinh doanh phù hợp là quyền của doanh nghiệp tùy theo nhu cầu và điều kiện kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp. Trường hợp, doanh nghiệp có dự án sử dụng đất tại đơn vị hành chính cấp tỉnh khác với nơi có trụ sở chính thì doanh nghiệp thực hiện trình tự, thủ tục theo pháp luật về đầu tư, đất đai… mà không bắt buộc thành lập một pháp nhân mới. Do đó, không nên có quy định hạn chế hoặc yêu cầu doanh nghiệp phải thành lập pháp nhân mới khi kinh doanh ngoài phạm vi địa phương nơi mà doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
Chưa quy định hộ kinh doanh trong Luật DN
Trước hai luồng ý kiến khác nhau: "một số ý kiến đồng ý với việc quy định một chương về hộ kinh doanh trong dự thảo luật; một số ý kiến khác đồng ý xem xét, ban hành một luật riêng về hộ kinh doanh". Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã gửi phiếu xin ý kiến các đại biểu Quốc hội. Trên cơ sở đa số ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu theo hướng bỏ quy định tại chương VIIa về hộ kinh doanh; bỏ quy định về chuyển hộ kinh doanh thành doanh nghiệp.
Đồng thời, để bảo đảm tính liên tục cho đến khi ban hành một luật riêng về hộ kinh doanh, cần thiết giao Chính phủ hướng dẫn đăng ký và hoạt động đối với hộ kinh doanh.
Hà Trang