Từ khóa "doanh nghiệp" :
TP.HCM: Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa kiến nghị Chính phủ ‘cứu' doanh nghiệp bằng 3 nhóm giải pháp
Do khó khăn do bởi đại dịch, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa tại TP.HCM đã kêu gọi 5.000 chữ ký vào lá thư kiến nghị trực tuyến để gửi đến Chính phủ, trong đó các doanh nghiệp nêu ra 3 nhóm giải pháp “cứu” doanh nghiệp.
Theo số liệu thống kê doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 97,8% số doanh nghiệp cả nước, song các doanh nghiệp này đang gặp hàng loạt khó khăn khi phải ngừng hoạt động, chi phí "3 tại chỗ" tăng cao, nặng gánh phí mặt bằng, kho bãi, bảo hiểm xã hội... Do đó, 11 lãnh đạo các doanh nghiệp đã đồng soạn thảo kiến nghị và đăng tải lên website, kêu gọi đủ 5.000 chữ ký online sẽ in và chuyển văn bản đến Chính phủ. Các doanh nghiệp này đề nghị Chính phủ hỗ trợ ở 3 nhóm vấn đề chính liên quan đến người lao động, thuế - chi phí, và tài chính - ngân hàng.
Cụ thể, đối với chính sách liên quan đến người lao động, các doanh nghiệp mong muốn được hỗ trợ bằng cách cho tạm ngừng đóng BHXH ít nhất đến 6 tháng sau khi công bố hết dịch. Không áp dụng phạt đối với các doanh nghiệp không có khả năng đóng BHXH trong thời kỳ đại dịch.
Doanh nghiệp kiến nghị miễn giảm 100% phí BHXH của doanh nghiệp và người lao động trong thời gian đại dịch phải ngừng hoạt động và giãn cách xã hội, có chính sách hỗ trợ khẩn cấp đối với người lao động đã và đang hoàn thành đầy đủ trách nhiệm đóng BHXH cho đến hiện tại.
Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa ở TPHCM kiến nghị Chính phủ ‘cứu' doanh nghiệp. (Ảnh: PV)
Đối với chính sách thuế và chi phí, các doanh nghiệp mong muốn được miễn thuế giá trị gia tăng (VAT) trong năm 2021, giảm 50% thuế VAT trong 2 năm kế tiếp 2022 - 2023, giảm 50% thuế TNDN phải nộp của năm 2021 và giảm 30% thuế TNDN 3 năm liền kể từ khi công bố hết dịch.
Đồng thời, các doanh nghiệp đề nghị được chấp nhận tất cả các loại chi phí phát sinh trong đại dịch mà doanh nghiệp phải bỏ ra như xét nghiệm, chi phí chống dịch và "3 tại chỗ".
Đối với nhóm kiến nghị liên quan đến chính sách tài chính - ngân hàng, các doanh nghiệp kiến nghị được hỗ trợ gói ưu đãi lãi suất tối thiểu 4% tương đương gói hỗ trợ năm 2008 - 2009 từ ngày 1-8-2021 đến 12 tháng sau công bố hết dịch.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng kiến nghị cho phép thực hiện chính sách khoanh nợ, giãn nợ (cả gốc và lãi) đối với các doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động và gặp khó khăn không có khả năng thanh toán do đại dịch kéo dài. Khoanh nợ gốc và giảm lãi suất từ 2-3% kể từ 1-8-2021 đến 6 tháng sau khi Chính phủ công bố hết dịch đối với các doanh nghiệp còn lại.
Đến 22h ngày 29-8, văn bản này đã nhận được 407 chữ ký online và nhận được sự hưởng ứng của cộng đồng doanh nghiệp vừa và nhỏ trên mạng xã hội.
Theo doanhnghiephoinhap.vn
Nguồn bài viết: https://doanhnghiephoinhap.vn/tp-hcm-nhieu-doanh-nghiep-nho-va-vua-kien-nghi-chinh-phu-cuu-doanh-nghiep-bang-3-nhom-giai-phap.html
Vietcombank tiếp tục giảm thêm lãi suất tiền vay hỗ trợ khách hàng tại 19 tỉnh thành phố phía Nam bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid -19
Từ năm 2020 đến nay, Vietcombank đã liên tục triển khai 08 đợt giảm lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID -19 và thiên tai. Theo đó, Vietcombank đã hỗ trợ giảm lãi cho khách hàng với tổng giá trị hơn 5.400 tỷ đồng tính đến hết tháng 6 năm 2021.
Hiện tại, Vietcombank đang triển khai chính sách giảm lãi suất hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 trên phạm vi toàn quốc từ ngày 15/07/2021 đến 31/12/2021 với mức giảm từ 0,5% - 1%/năm tuỳ đối tượng khách hàng với quy mô hỗ trợ lên tới 1.800 tỷ VND.
Trước tình hình dịch COVID-19 diễn biến rất phức tạp, nhằm hỗ trợ khách hàng, Vietcombank quyết định tiếp tục giảm lãi suất tiền vay trong thời gian từ 18/8/2021 đến hết 31/12/2021 đối với tất cả doanh nghiệp và cá nhân ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 tại 19 tỉnh, thành phố phía Nam hiện đang áp dụng giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19. Cụ thể như sau:
- Giảm lãi suất tới 0,5%/năm cho toàn bộ dư nợ vay của khách hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương.
- Giảm lãi suất tới 0,3%/năm cho toàn bộ dư nợ vay của khách hàng tại các địa bàn tỉnh, thành phố phía Nam khác áp dụng giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ bao gồm Đồng Nai, Cần Thơ, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang, Long An, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Bến Tre, Hậu Giang, An Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, Kiên Giang.
(Không áp dụng với các khoản vay chứng khoán, vay kinh doanh bất động sản, vay cầm cố giấy tờ có giá…)
Đặc biệt, nếu đáp ứng điều kiện, các khách hàng đã được giảm lãi suất theo chính sách hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 giai đoạn 3 của Vietcombank triển khai ngày 15/07/2021 sẽ được tiếp tục giảm thêm lãi suất theo chính sách hỗ trợ lần này.
Song song với đó, Vietcombank sẽ tiếp tục triển khai nhiều chương trình cho vay lãi suất thấp đối với các khoản vay mới nhằm hỗ trợ khách hàng trên địa bàn tỉnh, thành phố phía Nam vượt qua giai đoạn khó khăn từ nay đến cuối năm. Tổng số tiền lãi hỗ trợ khách hàng địa bàn tỉnh, thành phố phía Nam trong các tháng cuối năm 2021 dự kiến lên tới 1.000 tỷ đồng. Như vậy, tổng số tiền lãi Vietcombank hỗ trợ khách hàng trên toàn quốc cả năm 2021 là 7.100 tỷ đồng.
Bên cạnh việc giảm lãi suất, Vietcombank cũng đã thực hiện giảm phí, cơ cấu nợ và giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng. Đồng thời, Vietcombank đã cam kết và tài trợ gần 350 tỷ đồng để hỗ trợ các địa phương và ngành y tế trong công tác phòng chống dịch COVID-19.
Với những biện pháp nêu trên, Vietcombank mong muốn được đồng hành, chia sẻ khó khăn với khách hàng, chung tay cùng cộng đồng vượt qua đại dịch COVID-19.
VCB News
Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp do ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19
(Pháp lý) – Đại dịch COVID-19 đang càn quét khốc liệt trên phạm vi toàn thế giới, gây nhiều tác động tiêu cực chưa từng có tiền lệ lên nền kinh tế thế giới và Việt Nam. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp để hạn chế rủi ro của dịch bệnh đối với nền kinh tế, bảo đảm tăng trưởng hợp lý, ổn định xã hội, tạo nền tảng cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trong những năm tới. Sau đây TCPL trân trọng đăng tải góc nhìn và một số đề xuất của LG. Lê Đông Triều ( Phó Viện trưởng Viện Khoa học Pháp lý và Kinh doanh quốc tế) về các vấn đề trên.
Đại dịch COVID-19 tác động rất lớn đến kinh tế (ảnh minh hoạ)
Tác động của đại dịch COVID-19 đến kinh tế
Quan sát đến các yếu tố của dịch bệnh Covid-19 có thể nhận thấy trên thế giới, từ ngày 08/12/2019, sự bùng phát của dịch bệnh Covid-19 đã xảy ra tại Vũ Hán, Trung Quốc, (là virus Corona- SARS-CoV-2; gọi tắt là Covid-19). Sau đó đã lây lan đến rất nhiều các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đến tháng 02/2020 dịch bệnh Covid- 19 đã bùng phát ở Mỹ, các nước Châu Âu và các nước Châu Á.. Do vậy, Ngày 11/3/2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã tuyên bố dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid-19 do chủng mới của virus Corona (SARS-CoV-2) là một đại dịch toàn cầu. Dịch bệnh Covid-19 đã thực sự tác động rất lớn đến nền kinh tế toàn cầu.
Năm 2020, đại dịch Covid-19 thực sự đã tác động khủng hoảng đến kinh tế thế giới, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động kinh tế- thương mại và đời sống người dân của các quốc gia. Nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Liên minh Châu Âu (EU), Trung Quốc …đều bị suy giảm sản xuất-thương mại, suy giảm tăng trưởng kinh tế, tình trạng thất nghiệp tăng nhanh dẫn đến suy thoái kinh tế toàn câù.
Việt Nam cũng không ngoại lệ. Mặc dù ngay khi có dịch bệnh, Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các Bộ, ngành và lãnh đạo các Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương đã có nhiều biện pháp quyết liệt, sáng tạo phòng chống dịch.
Do vậy, năm 2020 Việt Nam đã đẩy lùi được dịch bệnh covid-19 và đã đạt được một số kết quả ban đầu; Tuy nhiên do dịch bệnh Covid-19 đã tác động rất lớn đến sự suy thoái kinh tế toàn cầu, do đó nền kinh tế Việt Nam năm 2020 cũng đã bị ảnh hưởng nhất định.
Sang năm 2021, đặc biệt là mấy tháng gần đây, dịch bệnh Covid-19 đã lan rộng trên toàn thế giới, tại Việt Nam đến thời điểm này thì tình hình dịch bệnh Covid-19 đã diễn biến rất phức tạp, bởi biến thể của chủng virus Delta lây lan mạnh, rất nhanh, diện rộng, khó kiểm soát và kéo dài, ảnh hưởng nặng nhất là tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau gần hai năm đã từng đối phó với dịch bệnh Covid-19, nhưng trong 2 tháng vừa qua (tháng 6/2021 -7/2021) của đợt dịch bệnh Covid-19 thứ tư này, Thành phố Hồ Chí Minh là Thành phố lớn, đông dân nhất Việt Nam, đã phải đối phó với những diễn biến của dịch bệnh bùng phát vô cùng phức tạp, chưa có tiền lệ. Dịch bệnh Covid-19 đã thật sự là nhân tố chính ảnh hưởng đến tình hình kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh và nền kinh tế cả nước.
Những chỉ đạo, hành động quyết liệt của Chính phủ và các bộ ngành nhằm kìm chế dịch bệnh
Tại Việt Nam, ngày 29/01/2020, Bộ Y tế đã có Quyết định số 219/QĐ-BYT về việc bổ sung bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona (nCoV) gây ra vào danh mục các bệnh truyền nhiễm nhóm A. Theo Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007. (Các bệnh truyền nhiễm nhóm A gồm những bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm, có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh).
Chính phủ Việt Nam và các bộ ngành đã có nhiều chỉ đạo, hành động quyết liệt nhằm kìm chế dịch bệnh
Ngày 01/02/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 173/QĐ-TTg về việc công bố dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus Corona gây ra. (Thời gian xẩy ra dịch là từ ngày 23/01/2020)
Ngày 27/3/2020, Thủ tướng Chính phù ban hành Chỉ thị số 15/CT-TTg về thực hiện đợt cao điểm phòng, chống dịch Covid-19.
Ngày 31/3/2020, Thủ tướng chính phủ ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19. (Trong đó yêu cầu thực hiện cách ly toàn xã hội trong vòng 15 ngày kể từ 0 giờ 00 ngày 01/4/2020 trên phạm vi toàn quốc).
Ngày 01/4/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 447/QĐ-TTg về việc công bố dịch Covid-19. (Công bố dịch truyền nhiểm tại Việt Nam, thời gian xảy ra dịch là từ ngày 23/01/2020).
Các nhà khoa học đã cho rằng dịch bệnh Covid-19 là yếu tố rất khó dự đoán. Bước sang đầu năm 2021 Việt Nam đã phải tiếp tục đối phó với sự bùng phát của dịch bệnh Covid-19, rất nghiêm trọng là tại Thành phố Hồ Chí Minh phải đối phó với dịch bệnh Covid-19 bùng phát bởi chủng mới biến thể Delta. Đây là biến chủng của vỉrus Corona- SARS-CoV-2 khác với trước đây, việc lây nhiểm rất nhanh, số người mắc cao hơn nhiều.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm, nên lúc đầu Thành phố đã có lúng túng, hoặc trong triển khai thực hiện có những sự bất cập mà Thành phố cũng đã nhận thấy.
Thông qua các con số thống kê của Bộ Y Tế mà các cơ quan truyền thông đưa tin mỗi ngày về các ca nhiễm tăng lên, đã làm cho nhân dân, đặc biệt là người dân Thành phố Hồ chí Minh có trạng thái lo lắng trước số lượng ca nhiễm tăng cao hằng ngày trong tháng 7/2021 vừa qua.
Ngày 17/7/2021, Thủ tướng chính phủ đã có công văn số 969/TTg-KGVX về việc thực hiện giãn cách xã hội phòng chống dịch tại một số địa phương: Áp dụng biện pháp giãn cách xã hội trên phạm vi toàn tỉnh, thành phố theo quy định tại chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ đối với Thành phố Hồ Chí Minh và 18 Tỉnh, Thành khu vực phía Nam. Thời gian thực hiện giãn cách xã hội là 14 ngày, kể từ ngày 19/7/2021 do diễn biến dịch bệnh quá phức tạp.
Có thể nói, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phải đi đến một quyết định khó khăn , nhưng rất cần thiết vào thời điểm này. Trước đó, Thành phố Hồ Chí Minh, Tỉnh Bình Dương và Tỉnh Đồng Nai cũng đã thực hiện lệnh giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg, do tình hình dịch bệnh Covid-19 bùng phát.
Nhiều quyết sách hỗ trợ Doanh nghiệp để cứu nền kinh tế
Hiến pháp 2013 đã xác định các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất kinh doanh; phát triển các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước.
Thời gian qua, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều được đánh giá là có vai trò, vị trí đặt biệt trong nền kinh tế, là bộ phận tạo ra tổng sản phẩm quốc gia (GDP), phát triển kinh tế xã hội; giải quyết việc làm cho người lao động, phát triển sản xuất, kinh doanh, làm tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng thu nộp ngân sách cho nhà nước; góp phần đắc lực vào sự phát triển kinh tế bền vững và sự ổn định xã hội.
Do vậy, khi có sự kiện bất khả kháng như thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh.. xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước được và không thể khắc phục được, mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép; nhưng doanh nghiệp cũng không vượt qua được; thì nhà nước phải có trách nhiệm trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp, trong đó có người lao động.
Các sự kiện pháp lý quan trọng liên quan đến đại dịch Covid-19, doanh nghiệp có thể làm căn cứ đề nghị nhà nước xem xét hổ trợ, giải cứu và đồng thời cũng có thể xác định là yếu tố rủi ro dẫn đến các trường hợp miễn trách nhiệm do các bên (các doanh nghiệp) thoả thuận, sự kiện bất khả kháng, hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia và hành vi vi phạm của một bên do thực hiện các quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nhằm ngăn chặn, dập tắt dịch bệnh Covid-19 mà các bên không thể biết trước vào thời điểm giao dịch ký kết hợp đồng.
Tuy nhiên, việc hỗ trợ của nhà nước cũng cần lưu ý đến những cam kết liên quan đến doanh nghiệp mà Việt Nam đã ký kết với WTO (Tổ chức Thương mại thế giới) và các hiệp định Thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương như (CP.TPP) Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, (EVFTA) Hiệp định Thương mại Tự do Viẹt Nam-Liên minh Châu Âu…
Cùng với định hướng chiến lược cho sự phát triển của quốc gia và thực hiện chủ trương phòng chống dịch bệnh Covid-19, thời gian qua chính phủ đã có nhiều chính sách, công cụ, giải pháp hỗ trợ, giải cứu cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng Covid-19.
Gần đây nhất là: Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Nội dung bao gồm 12 chính sách mới hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp bị ảnh hưởng của dịch covid-19.
Ngoài các Thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành, Văn phòng Chính phủ cũng đã có công văn số 5098/VPCP-ĐMDN gửi các Bộ: Y tế, Tài chính, Văn hóa -Thể thao và Du lịch, Lao động -Thương binh và Xã hội, Kế hoạch và Đầu tư, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, truyền đạt ý kiến của một Phó Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, cơ quan trên theo chức năng nhiệm vụ được giao nghiên cứu các đề xuất, kiến nghị của đơn vị để có giải pháp tốt hơn trong quản lý, chỉ đạo điều hành; chủ trì nghiên cứu, xây dựng hoặc điều chỉnh cơ chế, chính sách cho phù hợp với tình hình đại dịch Covid-19 nhằm hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, kịp thời xử lý các kiến nghị, đề xuất của các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp. Trường hợp vượt thẩm quyền, thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ xem xét, quyết định.
Các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã có các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và người lao động, lao động tự do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nhằm duy tri sản xuất, ổn định đời sống người lao động tại địa phương.
Ví dụ tại Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Uỷ Ban nhân dân Thành phố đã ban hành văn bản số 2512/UBND-VX ngày 28/72021 Về việc triển khai một số chính sách hổ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 theo nghị quyết 68/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định số 23/2021QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Nhiều quyết sách của Chính phủ nhằm hỗ trợ Doanh nghiệp để cứu nền kinh tế được ban hành ( Ảnh minh họa)
Sự tác động của đại dịch Covid-19 là có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam, tác động đến dự báo về tăng trưởng kinh tế năm 2021 sẽ gặp rất nhiều khó khăn; sẽ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp ở tất cả các ngành, các lĩnh vực, mặc dù mức độ khác nhau, không đồng nhất và có rất nhiều thách thức theo đặc thù, quy mô của từng loại hình doanh nghiệp và liên quan đến nhiều yếu tố về chiến lược kinh doanh, tình hình tài chính, thị trường, khách hàng, sản phẩm, nguồn cung ứng nguyên phụ liệu, tình hình lao động v.v…
Ngoài việc hỗ trợ của nhà nước, các doanh nghiệp cần quan tâm: thực tế do ảnh hưởng của đại dịch covid-19, sự kiện bất khả kháng, có thể xảy ra việc doanh nghiệp không thực hiện được hợp đồng là ngoài ý muốn; Hậu quả phát sinh do sự kiện bất khả kháng xảy ra thì bên không hoàn thành được hợp đồng, cụ thê như: nghĩa vụ không được thực hiện, không được thực hiện đầy đủ, hoặc không thực hiện đúng sẽ được miễn trách nhiệm; do vậy doanh nghiệp có liên quan phải chủ động đàm phán, thoả thuận lại; có thể được kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng hoặc chấm dứt việc thực hiện hợp đồng, là do thiện chí của các bên (doanh nghiệp).
Liên quan về chế định giải quyết hậu quả trong kinh doanh của các đơn vị kinh tế; nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đơn vị kinh doanh, vẫn có thể xảy ra hai hậu quả thực tế không mong muốn có tính phổ biến là tranh chấp về hợp đồng kinh tế và phá sản khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và bị toà án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản.
Giải pháp chính sách cho giai đoạn tới
Hiện nay, Đảng và Nhà nước đang tập trung chỉ đạo phòng chống dịch bệnh Covid-19. Cụ thể là Lời kêu gọi gửi Đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài về công tác phòng, chống đại dịch Covid-19 của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng ngày 29/7/2021 và Thư Động viên gửi Các lực lượng tuyến đầu phòng, chống dịch Covid-19 của Thủ Tướng Phạm Minh Chính ngày 01/8/2021... Đây là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của cả nước hiện nay, để góp phần kiềm chế, ngăn chặn sự bùng phát của dịch bệnh Covid-19, phát triển kinh tế xã hội, chăm lo đời sống và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân cả nước.
Căn cứ các chính sách và các gói hổ trợ của chính phủ và Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương đã công bố; các doanh nghiệp phối hợp với các Hiệp Hội ngành nghề và đề nghị các Bộ, các Sở, chuyên ngành quan tâm triển khai nhanh và kịp thời hổ trợ cho doanh nghiệp và người lao động để thúc đẩy, phục hồi hoạt dộng sản xuất-kinh doanh.
Về nội bộ các doanh nghiệp cần chủ động xây dựng chiến lược, kế hoạch định hướng phát triển cho doanh nghiệp; có các biện pháp khả thi và hiệu lực để phục hồi sản xuất-kinh doanh ngay sau khi được Thủ tướng Chính phủ hoặc Uỷ ban nhân dân cấp Tỉnh, Thành phố công bố dịch bệnh Covid-19 đã được kiểm soát và cho phép các hoạt động trở lại bình thường.
Kiến nghị Lãnh đạo các Bộ, Cơ quan ngang Bộ và Uỷ Ban nhân dân Cấp Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương theo thẩm quyền xem xét, nghiên cứu, cải tiến quy trình, rút ngắn các thủ tục hành chính nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp có đủ các điều kiện, thủ tục pháp lý để thuận lợi trong việc tổ chức sản xuất-kinh doanh.
Đặc biệt những doanh nghiêp đã hưởng ứng chính sách của nhà nước về phát triển khoa học công nghệ; đã đẩy mạnh việc đầu tư, nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến và hiện đai, nghiên cứu làm chủ và tạo ra công nghệ mới, đã đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ và năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Đặc biệt hơn là những sản phẩm rất cần thiết, cấp bách, là giải pháp căn bản cho chiến dịch ngăn chặn dịch bệnh Covid-19 tại Thành phố Hồ Chí Minh và các Tỉnh, Thành phố trong cả nước hiện nay, đó là “Vaccine”.
Rất hy vọng sản phẩm vaccine phòng, chống Covid-19 “made in Vietnam” của các doanh nghiệp Việt Nam như Công ty Công nghệ sinh học Dược đã được đánh giá sơ bộ tốt sau các giai đoạn thử nghiệm sẽ được cấp phép sớm, để sản xuất và đưa vào tiêm chủng kịp thời phục vụ nhân dân, trong điều kiện vaccine nhập khẩu từ nước ngoài về còn rất giới hạn.
LG. Lê Đông Triều (Phó Viện trưởng Viện IBLA)
Tiếp sức doanh nghiệp vượt qua đại dịch covid - 19: Cần mở rộng đối tượng và tăng thời gian giảm thuế VAT
(Pháp lý) - Ngay từ cuối năm 2020, rất nhiều diễn đàn, các tổ chức Hiệp hội, chuyên gia, ngành nghề đã lên tiếng kiến nghị giảm thuế. Nhưng đến nay mới chỉ được giãn, chậm nộp thuế VAT và giảm 30 % thuế TNDN. Giãn, hoãn nghĩa là chỉ được chậm nộp thuế mà không bị phạt lãi chậm nộp, chứ trước sau gì vẫn phải nộp. Như vậy không thấm vào đâu so với những gì mà hàng vạn doanh nghiệp (DN) đang phải đối đầu hiện nay. “ DN trong cơn bĩ cực”; “ DN giờ như cá nằm trên cạn”…Đó là những từ ngữ mà báo chí gần đây thay lời muốn nói của DN, đặc biệt là những DNVVN.
Nước ta đã trải qua 4 đợt dịch bệnh covid – 19 tính từ đầu năm 2020 đến nay. Nhưng đợt 4 hiện nay là nặng nề nhất, kéo dài nhất. Đã có hàng ngàn doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ sức chống đỡ. Nay lại bị bồi thêm một đợt dịch bệnh vô cùng nặng nề nữa, đến giờ DNVVN nào còn trụ được là sức đề kháng phải rất tốt.
Các DN du lịch chịu thiệt hại nặng nề nhất do dịch Covid-19.
Vậy nên khi nghe tin Bộ Tài chính có chủ trương xây dựng đồng bộ các giải pháp hỗ trợ DN về thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất…., chắc hàng vạn DN có chút nhẹ nhõm và ngóng chờ . Được biết, Bộ đề xuất một số gói hỗ trợ rất mới như: Giảm 50% số thuế phải nộp phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các tháng trong quý III và quý IV của năm 2021 đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trong mọi lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn, hình thức khai thuế, nộp thuế; Giảm 30% mức thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong một số nhóm lĩnh vực dịch vụ; Miễn tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020 và năm 2021 (02 năm chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19) đối với doanh nghiệp, tổ chức phát sinh lỗ liên tục trong các năm 2018, năm 2019, năm 2020….
Bộ Tài chính Đề xuất giảm 30% thuế TNDN, 50% thuế phải nộp đối với hộ và cá nhân kinh doanh trong mọi lĩnh vực.
1. Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2021 đối với doanh nghiệp, tổ chức như đã áp dụng cho năm 2020;
2. Giảm 50% số thuế phải nộp phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các tháng trong quý III và quý IV của năm 2021 đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trong mọi lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn, hình thức khai thuế, nộp thuế;
3. Giảm 30% mức thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong một số nhóm lĩnh vực dịch vụ;
4. Miễn tiền chậm nộp phát sinh trong năm 2020 và năm 2021 (02 năm chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19) đối với doanh nghiệp, tổ chức phát sinh lỗ liên tục trong các năm 2018, năm 2019, năm 2020.
Theo Tổng cục Thống kê, trong số 2.164,5 nghìn tỉ đồng vốn đầu tư xã hội năm 2020, có đến 972,2 nghìn tỉ đồng đến từ khối kinh tế ngoài nhà nước, trong khi khối FDI chỉ chiếm 463,3 nghìn tỉ đồng. Còn trong quý I năm nay, vốn đầu tư toàn xã hội đạt 507,6 nghìn tỉ đồng, riêng khu vực ngoài nhà nước chiếm đến hơn 57%, khu vực Nhà nước chiếm 24% và khu vực FDI chỉ chiếm gần 19%.
Bên cạnh đó, các số liệu thống kê đều cho thấy khu vực kinh tế tư nhân đang tạo ra khoảng 40% GDP, 30% ngân sách nhà nước và thu hút đến 85% lực lượng lao động cả nước. Những con số trên cho thấy kinh tế tư nhân đang ngày càng trở thành “lực kéo” quan trọng của nền kinh tế Việt Nam.
Bàn về vai trò của DNTN, tại Hội thảo “Đổi mới toàn diện quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam”, phát biểu tại Hội thảo, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh: Vai trò, vị thế của kinh tế tư nhân ngày càng được khẳng định và thể hiện rõ nét thông qua những đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỉ trọng 42-43% GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội...
Đặc biệt lực lượng DNTN đã góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm thay đổi diện mạo đất nước, tạo dấu ấn, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; hình thành nhiều thương hiệu có tính cạnh tranh khu vực và quốc tế.
Do đó, cần phải tiếp tục có những cơ chế, chính sách để doanh nghiệp tư nhân trụ vững thời gian này và phát triển mạnh hơn nữa trong giai đoạn hậu COVID-19.
Còn các DNVVN ? DNVVN có vai trò rất lớn trong quá trình tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
DNVVN tạo công ăn việc làm cho hàng vạn người lao động, góp phần giảm thất nghiệp; Doanh nghiệp nhỏ và vừa giữ vai trò quan trọng trong việc ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ccung cấp cho thị trường nhiều mặt hàng phong phú, đa dạng ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, tạo ra nhiều sự lựa chọn, đáp ứng được mọi nhu cầu của người tiêu dùng, từ đó thúc đẩy sức tiêu thụ của nền kinh tế. Vì thế mức độ đóng góp của các DNVVN vào tổng sản lượng của nền kinh tế là rất lớn.
Phát biểu tại “Lễ tôn vinh doanh nhân, doanh nghiệp Thăng Long năm 2020”, ông Chu Ngọc Anh, Chủ tịch UBND TP Hà Nội đánh giá: Mặc dù bị tác động bởi dịch COVID-19, nhưng kinh tế Thủ đô vẫn duy trì sự tăng trưởng. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa Hà Nội đóng góp hơn 30% tổng thu ngân sách, tạo nhiều việc làm, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Với tầm quan trọng như vậy của khối DNTN và DNVVN đối với nền kinh tế và xã hội, vậy nên, còn chần chừ gì nữa mà không nhanh chóng có những chính sách giảm thuế kịp thời để khoan sức cho DN. DN được cứu sống, sau dịch bệnh, họ khỏe lại, họ sẽ đóng góp và bù đắp cho nền kinh tế. Còn DN mà hao hụt và mất đi, thì ai sẽ nuôi ngân sách…Mệnh đề này ai cũng hiểu, đặc biệt là các cơ quan quản lý.
Doanh nghiệp kỳ vọng gì cho chính sách giảm thuế sắp tới của Bộ Tài chính ?
Tuy nhiên giảm thuế TNDN, giảm thuế VAT…, với mức giảm thế nào và đối tượng, thời gian giảm ra sao…? cho thực chất, thực sự hà hơi tiếp sức được cho DN, thì cần tính kĩ .
Theo chúng tôi, cần tăng thời gian giảm và đối tượng được giảm thuế VAT. Thay vì đề xuất giảm 50% số thuế phải nộp phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các tháng trong quý III và quý IV của năm 2021, kiến nghị giảm cho cả năm 2022; Thay vì đề xuất giảm 30% mức thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong một số nhóm lĩnh vực dịch vụ , kiến nghị giảm 50 % thuế VAT cho tất cả các nhóm lĩnh vực dịch vụ.,,,
Và cần thiết mở rộng đối tượng giảm thuế VAT, bởi không chỉ các doanh nghiệp mà các tổ chức, đơn vị sự nghiệp không hưởng ngân sách hiện nay cũng rất khó khăn ( như nhiều cơ quan báo chí chẳng hạn). Các cơ quan báo chí hiện nay kê khai và nộp các loại thuế ( TNDN, VAT) như doanh nghiệp, nhưng các chính sách hỗ trợ DN thì lại không có tên báo chí. Ngoài ra, nếu trong trường hợp dịch bệnh còn kéo dài thì thời gian giảm thuế cần tăng lên vài năm. Vì khi dịch bệnh giảm và được ngăn chặn thì sau đó, DN vực dậy và phục hồi được không thể chỉ trong một năm.
Đồng thời việc ban hành các giải pháp hỗ trợ cần đạt được các mục tiêu, yêu cầu như: đảm bảo các chính sách hỗ trợ phải nhanh, lược giảm tối đa các thủ tục và điều kiện nhằm giúp doanh nghiệp ứng phó với ảnh hưởng của dịch COVID-19, sớm khôi phục sản xuất kinh doanh theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Kiến nghị tăng thời gian giảm và đối tượng được giảm thuế VAT. Thay vì đề xuất giảm 50% số thuế phải nộp phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các tháng trong quý III và quý IV của năm 2021, kiến nghị giảm cho cả năm 2022; Thay vì đề xuất giảm 30% mức thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong một số nhóm lĩnh vực dịch vụ , kiến nghị giảm 50 % thuế VAT cho tất cả các nhóm lĩnh vực dịch vụ.,,,
Và cần thiết mở rộng đối tượng giảm thuế VAT, bởi không chỉ các doanh nghiệp mà các tổ chức, đơn vị sự nghiệp không hưởng ngân sách hiện nay cũng rất khó khăn ( như nhiều cơ quan báo chí chẳng hạn). Các cơ quan báo chí hiện nay phải nộp các loại thuế ( TNDN, VAT) như doanh nghiệp, nhưng các chính sách hỗ trợ DN thì lại không có tên báo chí.
Phúc Trang
Cần lập tổ hợp tín dụng 300.000 tỷ và hạ chuẩn cho vay để hỗ trợ Doanh nghiệp vượt “bão covid”
(Pháp lý) – Dịch bệnh covid -19 khiến hàng vạn doanh nghiệp gặp muôn vàn khó khăn bủa vây, nhất là các DNVVN như “cá nằm trên cạn”. Trong khi đó vẫn có rất nhiều ngân hàng lãi lớn. Hơn lúc nào hết, đây là thời điểm để các ngân hàng thể hiện vai trò, trách nhiệm xã hội của mình. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần có cách để san sẻ vấn đề này - TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng thẳng thắn góp ý. Và ông đề xuất: ngành ngân hàng “cần lập tổ hợp tín dụng 300.000 tỷ và hạ chuẩn cho vay để khẩn cấp hỗ trợ Doanh nghiệp vượt cạn”
Hầu hết ngân hàng đều ghi nhận kết quả lợi nhuận tăng mạnh nửa đầu năm
Lãi thực tế của ngân hàng không như mọi người nghĩ
Phóng viên: Qua các đợt dịch covid -19, nhiều ngân hàng đã có chủ trương giảm lãi suất cho doanh nghiệp, nhưng nhiều người cho rằng, chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay của ngân hàng vẫn còn rất lớn khiến ngân hàng lợi nhuận lớn, trong khi Doanh nghiệp đang kiệt quệ vì ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh, liệu có đúng thưa ông?
TS. Nguyễn Tri Hiếu: Chênh lệch lãi suất (Interest rate differential) - là chênh lệch giữa lãi suất đầu ra (cho vay) và lãi suất đầu vào (tiền gửi) gọi là biên độ lợi nhuận. Thông thường, biên độ lợi nhuận chỉ ở khoảng 3%. Tuy nhiên, thời gian vừa rồi chênh lệch lãi suất thực tế lên đến 4%, thậm chí có thời điểm còn lớn hơn.
Việc giãn biên độ lợi nhuận này tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Nhưng nếu chỉ nhìn vào biên độ lợi nhuận giãn ra như thế mà cho rằng ngân hàng lãi lớn là chưa đúng. Bởi, chúng ta chưa tính tới nợ xấu tiềm ẩn, chi phí trích lập dự phòng của ngân hàng.
Các ngân hàng trong thời gian từ năm 2020 đến nay, theo quy định tại thông tư 01 và thông tư 03, ngân hàng được phép cơ cấu lại khoản vay, không chuyển nhóm nợ đối với một số khoản nợ xấu. Như thế có nghĩa, ngân hàng không phải trích lập dự phòng đúng với phòng thực tế. Điều này khiến chi phí của ngân hàng giảm đi, trong khi doanh thu cao và từ đó đẩy lợi nhuận ngân hàng lên.
Theo tôi, trong phần lợi nhậu đó có phần lợi nhuận ảo trong đó. Chính các ngân hàng họ cũng biết điều đó. Bản thân các ngân hàng cũng không vui mừng về lợi nhuận cao. Bởi ngân hàng biết rằng, họ phải trích lập những dự phòng để tránh trường hợp nợ xấu. Trên sổ sách thì các ngân hàng đang lãi lớn, thế nhưng lãi thực tế thì thấp hơn nhiều.
Vì sao Doanh nghiệp muốn vay mới rất khó vay?
Phóng viên: Được biết mới đây, thực hiện chủ trương của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng đã đồng thuận giảm lãi suất để hỗ trợ Doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn. Tuy nhiên, về phía các Doanh nghiệp lại cho rằng, họ đang rất khó tiếp cận được nguồn vốn rẻ, đặc biệt là với những khoản vay mới. Bởi, hầu hết các Doanh nghiệp đang rơi vào tình trạng ngủ đông, phương án sản xuất kinh doanh không có… Ông đánh giá về vấn đề này thế nào?
TS Nguyễn Trí Hiếu: Nói riêng về giảm lãi suất cho vay, theo tôi lãi suất giảm chỉ có lợi cho những khách hàng đã và đang vay tiền của ngân hàng. Chẳng hạn như, Doanh nghiệp vay tiền đang phải trả lãi 12 %/năm, bây giờ ngân hàng giảm xuống khoảng 10%/năm là quá tốt.
Nhưng đối với các Doanh nghiệp muốn vay mới thì họ vẫn khó khăn. Bởi, khi mà các ngân hàng giảm lãi suất, đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ phải tăng tiêu chuẩn cho vay. Ngân hàng chỉ giảm lãi suất với điều kiện là độ rủi ro nó phải thấp hơn để bảo toàn vốn cũng như quyền lợi của các cổ đông của họ.
Chính vì vậy mà trong lúc khó khăn như thế này, các Doanh nghiệp đã khó vay vốn của ngân hàng trước đây thì hiện tại lại càng khó khăn.
Thời điểm để các ngân hàng thể hiện vai trò, trách nhiệm với xã hội
Phóng viên: Trong tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp kéo dài, tác động xấu đến cả nền kinh tế của Việt Nam, nhiều doanh nghiêp rơi vào tình trạng ngủ đông, sản xuất kinh doanh đình trệ, thậm chí phá sản. Tuy nhiên, vừa qua, các ngân hàng đồng loạt công bố báo cáo tài chính quý 2/2021 cho thấy kết quả kinh doanh cũng như lợi nhuận rất khả quan. Ông có đánh giá gì về “bức tranh đối lập” này?
TS Nguyễn Trí Hiếu: Đúng là trong cả nền kinh tế thì có lẽ ngành ngân hàng ngày một ăn nên làm ra, trong khi rất nhiều những ngành nghề khác đang bị khủng hoảng vì vấn đề dịch bệnh, trong đó thiệt hại lớn nhất có du lịch, khách sạn, giao thông vận tải…
Tuy nhiên, ngân hàng luôn luôn có tính thanh khoản cao nhất, bởi là nơi gửi tiền và vay tiền. Do đó, tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng có thể nói là cao nhất ở trong nền kinh tế hiện nay và chính vì lợi thế đó mà có lẽ cũng không lạ khi mà doanh thu của của ngành ngân hàng cao, lợi nhuận khả quan như vậy.
Trong bối cảnh dịch bệnh hoành hành, các ngành nghề khác có khó khăn phải vay tiền của ngân hàng. Kinh doanh của ngân hàng không thể nói là không bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, nhưng nó là mắt xích cuối cùng trong cái chuỗi mắt xích. Chính vì thế mà trước khi ngành ngân hàng bị lỗ thì rất nhiều những Doanh nghiệp trong các ngành khác đã thua lỗ, thậm chí gục ngã. Đây là lợi thế của ngân hàng so với các ngành khác.
Đặc biệt, thời điểm này cũng là thời điểm các thành phần kinh tế đang rất cần vốn vay của ngân hàng, điều này lý giải cho việc báo cáo tài chính của các ngân hàng có lợi nhuận tốt.
Phóng viên: Trong thời điểm hiện tại, rất nhiều Doanh nghiệp đang trong tình trạng đóng băng ngủ đông. Tuy nhiên, họ lại rất cần vốn để bảo toàn lực lượng sản xuất kinh doanh (trả lương lao động, bảo trì máy móc, kho bãi…). Theo ông, ngay tại thời điểm này và đến cuối năm các ngân hàng có nên tiếp tục hi sinh một phần lợi nhuận của mình để hỗ trợ, cùng Doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn này không?
TS. Nguyễn Trí Hiếu: Tất nhiên, các ngân hàng mặc dù họ không phải là những nhà làm công tác xã hội, nhưng họ có trách nhiệm xã hội. Do đó, khi mà cả một nền kinh tế lao đao khó khăn. Ngân hàng nên chia sẻ lợi nhuận của họ bằng cách giảm lãi suất cũng như là hỗ trợ khách hàng của họ và thậm chí nên đóng góp vào tất cả công cuộc từ thiện… Trước sự khó khăn của tất cả các thành phần trong nền kinh tế , họ nên có sự đóng góp nhiều hơn nữa. Đây là thời điểm để các ngân hàng thế hiện vai trò, trách nhiệm xã hội của mình.
TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng
Cần lập tổ hợp tín dụng 300.000 tỷ, hạ chuẩn cho vay để hỗ trợ Doanh nghiệp “vượt cạn”
Phóng viên: Vậy, giải pháp nào trong lúc này để vừa cân bằng lợi ích của ngân hàng, cổ đông nhưng đảm bảo hỗ trợ tối đa cho Doanh nghiệp, thưa ông?
TS Nguyễn Trí Hiếu: Có một giải pháp, mà giải pháp này tôi đã nhiều lần đề nghị. Đó là, tất cả hệ thống ngân hàng phải thành lập ra một tổ hợp tín dụng (Loan Syndication) có hạn mức lên đến 300.000 tỷ đồng. Tất cả các ngân hàng nội, ngoại có mặt ở Việt Nam đều phải tham gia với mức trung bình từ 3-3,5%/tổng dư nợ của mỗi ngân hàng.
Đặc biệt là cho vay đối với những Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở những Doanh nghiệp tác động bởi dịch bệnh để hỗ trợ Doanh nghiệp “vượt cạn” trong lúc này. Và phải cho vay tín chấp chứ không thể cho vay thế chấp. Các Doanh nghiệp đang mắc cạn hiện cũng chẳng có tài sản bảo đảm để có thể bảo đảm cho khoản vay.
Điều quan trọng là nếu mà cho vay như thế thì rất là rủi ro. Dĩ nhiên phải có một quy chế cho vay với những tiêu chuẩn như thế nào?. Tổ hợp tín dụng này phải do Ngân hàng Nhà nước đứng ra làm đầu mối và tất cả các ngân hàng sẽ họp lại với nhau để đưa quy chế, quy trình, tiêu chí để Doanh nghiệp nào có thể được vay.
Cần lập tổ hợp tín dụng 300.000 tỷ, hạ chuẩn cho vay để hỗ trợ Doanh nghiệp vượt cạn
Phóng viên: Đề xuất này hẳn sẽ được cộng đồng Doanh nghiệp ủng hộ. Tuy nhiên, không cho vay không phải vì ngân hàng thiếu tiền mà vấn đề nan giải nhất là vấn đề “hạ chuẩn" và nếu như vậy mãi mãi hai bên (ngân hàng và Doanh nghiệp) không thể gặp nhau. Theo ông, giải bài toán này ra sao trong tổ hợp tín dụng 300.000 tỷ này?
TS. Nguyễn Trí Hiếu: Đây không phải quỹ đầu tư nên ngân hàng không phải bỏ tiền vào trước mà 300.000 tỷ chỉ là hạn mức để cho vay trong gói này. Trong số các ngân hàng thương mại phải bầu ra một nhóm để giám sát xem mỗi lần giải ngân là giải ngân cho ai và bao nhiêu.
Khoản vay cho Doanh nghiệp có một số điều kiện cơ bản như: Vay trong vòng tối thiểu 5 năm, 2 năm đầu là vay tuần hoàn và 3 năm sau trả dần trên dư nợ vay vào cuối năm thứ 2. Mức lãi suất nên rất thấp từ 3-5%. Các ngân hàng phải dùng vốn Casa của mình (khoảng 10-20% dòng vốn Casa) để hỗ trỡ cho gói này. Vì dòng vốn này ngân hàng huy động vào được với lãi suất rất thấp.
Đúng là các ngân hàng không thể hạ chuẩn cho vay trong điều kiện thông thường. Tuy nhiên, trong tổ hợp tín dụng này thì phải có quy định khác so với truyền thống, phải hạ chuẩn và phải có cơ chế bảo lãnh tín dụng.
Các Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã khốn khổ rồi, bây giờ lại chẳng có tài sản bảo đảm, ngân hàng cho vay thì không khác nào tự đào hố chôn chính mình, thành ra, tổ hợp tín dụng đó phải làm việc với một quỹ bảo lãnh tín dụng của quốc gia.
Quỹ bảo lãnh tín dụng như một loại bảo hiểm cho các ngân hàng, các ngân hàng cho vay, quỹ bảo lãnh tín dụng đó bảo lãnh cho các ngân hàng mà nếu ngân hàng không thu hồi được nợ cuốn đó sẽ trả tiền cho cho ngân hàng. Cơ chế này cho phép ngân hàng hạ chuẩn cho vay.
Cần luôn luôn duy trì tiền trong quỹ bảo lãnh tín dụng này để lấp đầy tỷ lệ 10/1 (10 đồng vốn, 1 đồng bảo lãnh), để các ngân hàng tin tưởng cho vay. Quỹ bảo lãnh cũng như chơi chứng khoán, mỗi lần bồi thường cho rủi ro sẽ bị giảm xuống và Chính phủ phải xem đó là chi phí của quốc gia duy trì hoạt động của quỹ. Có quy chế đặc biệt cho vay và chuẩn mực trong tổ hợp này khác với truyền thống.
Theo đó, để ngân hàng cho vay an toàn thì cần sử dụng quy chế an toàn. Năm 2018 Chính phủ đã có Quyết định 34/2018/NĐ-CP về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng và hạn mức cũng rất nhỏ. Với tổ hợp tín dụng này phải có quỹ bảo lãnh tín dụng quốc gia, ngân sách bỏ tiền vào quỹ đó với vốn điều lệ tối thiểu là 30.000 tỷ để bảo lãnh cho 300.000 tỷ tín dụng các ngân hàng bỏ ra.
Phóng viên: Với mô hình như thế, có kinh nghiệm nào từ một số nước trên thế giới cho Việt Nam, thưa ông?
TS. Nguyễn Trí Hiếu: Những tổ hợp tín dụng trên thế giới rất là bình thường. Chẳng hạn như, 10 ngân hàng tham gia vào một dự án rất lớn, bản thân mỗi ngân hàng cho vay vào án đó thì rủi ro rất là cao, tại vì nó quá lớn, nó vượt cả cái hạn mức mà mà các ngân hàng cho vay. Do đó, các ngân hàng tụ lại với nhau và lập ra một liên kết, một tổ hợp cho vay dự án và chia sẻ lợi nhuận cũng như chia sẻ rủi ro. Đây là một hình thức rất thông thường và phổ biến ở trên thế giới. Ở Việt Nam cũng có những ngân hàng tham gia những chương trình như thế. Dưới dạng đồng tài trợ, đây là một hình thức của tổ hợp tín dụng.
Tuy nhiên, tổ hợp tín dụng mà tôi muốn nói đây không phải là chỉ có 5, 10 ngân hàng tham gia với nhau, mà phải có quy định pháp luật bắt buộc các ngân hàng tham gia. Tất cả các các ngân hàng trong nước và cả các ngân hàng nước ngoài hoạt động ở Việt Nam đều phải tùy theo sau quy mô của mình để tham gia.
Chính phủ, ngành ngân hàng cũng nên coi đây là thời điểm để cải tổ lại cả nền kinh tế và yêu cầu đồng hành với Doanh nghiệp là trách nhiệm xã hội của ngành ngân hàng ở thời điểm hiện tại.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Ông!
Văn Chiến (ghi)
Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Hỗ trợ kịp thời đảm bảo an sinh, an toàn sức khỏe cho người dân và DN bị ảnh hưởng bởi dịnh bệnh Covid-19
Với tinh thần khẩn trương, quyết liệt của toàn ngành Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, trong hơn 1 tháng qua chính sách hỗ trợ BHXH, BHYT, BHTN đã kịp thời đến với người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. đến nay, nhiều người lao động và người sử dụng lao động trong cả nước đã được thụ hưởng chính sách hỗ trợ về BHXH, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) và các chính sách hỗ trợ khác theo tinh thần Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ.
BHXH Việt Nam kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động theo tinh thần Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ.
Chính sách “phủ sóng” kịp thời đến với người dân và doanh nghiệp
Tính đến hết ngày 31/7/2021, toàn ngành BHXH đã triển khai thực hiện xong việc gửi thông báo điều chỉnh mức đóng 0% vào quỹ bảo hiểm tai nạn, bệnh nghề nghiệp (BHTNLĐ, BNN) cho 375 nghìn đơn vị sử dụng lao động, tương ứng 11,238 triệu lao động với số tiền tạm tính được điều chỉnh giảm vào quỹ BHTNLĐ, BNN (từ tháng 7/2021 đến tháng 6/2022) khoảng 4.322 tỷ đồng.
Thực thi chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, BHXH đã tiếp nhận hồ sơ và giải quyết cho 120 đơn vị với 9.533 lao động tạm dừng đóng quỹ hưu trí và tử tuất với số tiền 61,53 tỷ đồng tại 25 tỉnh, thành phố gồm: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Bình Thuận, Cần Thơ, Đắk Lắk, Đồng Nai, Đồng Tháp, Gia Lai, Hải Dương, Hải Phòng, Hòa Bình, Khánh Hòa, Lai Châu, Lạng Sơn, Lâm Đồng, Nghệ An, Phú Yên, Quảng Ngãi, Quảng Ninh, Sơn La, Thừa Thiên - Huế, Tiền Giang, Trà Vinh.
Toàn ngành BHXH đã xác nhận danh sách cho 175.804 lao động của 10.858 đơn vị sử dụng lao động để hưởng các chính sách tại 55 tỉnh, thành phố cho 116.160 lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không lương; 7.959 lao động ngừng việc để nhận hỗ trợ 1 triệu đồng/người; 16.764 lao động ngừng việc do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 để vay vốn trả lương ngừng việc; 25.877 NLĐ được NSDLĐ đề nghị vay vốn để trả lương phục hồi sản xuất (đối với NSDLĐ phải tạm dừng hoạt động).
Ngoài ra, BHXH cả nước đã xác nhân cho 9.044 NLĐ được NSDLĐ đề nghị vay vốn để trả lương phục hồi sản xuất (đối với NSDLĐ hoạt động trong lĩnh vực vận tải, hàng không, du lịch, dịch vụ lưu trú và đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng).
Để đạt được những kết quả nêu trên, BHXH Việt Nam đã liên tục có những chỉ đạo kịp thời, quyết liệt trong toàn hệ thống nhằm triển khai nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg. Trong đó, đặc biệt nêu cao vai trò, trách nhiệm, sự chủ động của lãnh đạo, viên chức toàn Ngành trong việc hướng dẫn, hỗ trợ NLĐ, NSDLĐ; cũng như việc cắt giảm tối đa thời gian giải quyết hồ sơ xuống còn không quá 01 ngày làm việc… để chính sách hỗ trợ đến được với NLĐ, NSDLĐ một cách sớm nhất, hiệu quả nhất. Việc ngành BHXH Việt Nam triển khai có hiệu quả các chính sách hỗ trợ về BHXH, BHTN đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho NLĐ, giúp doanh nghiệp có thêm điều kiện để phục hồi, duy trì hoạt động sản xuất, đẩy lùi dịch Covid-19, sớm ổn định kinh tế - xã hội và đời sống Nhân dân.
Hỗ trợ tối đa, đảm bảo an toàn, sức khỏe khám chữa bệnh BHYT
Trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 trên cả nước, đặc biệt là tại các tỉnh phía Nam, nhằm tiếp tục chung tay phòng, chống dịch, đảm bảo quyền lợi của người bệnh có thẻ BHYT, đảm bảo kinh phí KCB cho cơ sở KCB BHYT, ngày 2/8/2021 BHXH Việt Nam đã ban hành Công văn số 2311/BHXH-CSYT hướng dẫn về việc thực hiện tạm ứng, thanh quyết toán chi phí khám chữa bệnh (KCB) BHYT yêu cầu BHXH các tỉnh, BHXH Bộ Quốc phòng và BHXH Công an nhân dân thực hiện một số nội dung sau:
Thứ nhất, đảm bảo nguồn kinh phí phục vụ KCB cho người tham gia BHYT, không để xảy ra tình trạng thiếu kinh phí mua thuốc, hóa chất, vật tư y tế tại các cơ sở KCB BHYT. Theo đó, BHXH các tỉnh khẩn trương kiểm tra, rà soát và thực hiện tạm ứng đầy đủ, kịp thời kinh phí KCB BHYT theo quy định tại Điều 32 Luật BHYT.
Trường hợp đặc biệt, căn cứ tình hình và nhu cầu thực tế, đề nghị cơ sở KCB thuyết minh, đề xuất, có ý kiến của Sở Y tế (đối với các cơ sở KCB do địa phương quản lý) gửi cơ quan BHXH xem xét giải quyết, đảm bảo tạm ứng đủ kinh phí phục vụ công tác KCB BHYT, không để người bệnh tự chi trả chi phí trong phạm vi quyền lợi được hưởng theo quy định.
Thứ hai, BHXH các tỉnh thực hiện việc thanh quyết toán chi phí KCB BHYT theo quy định của Luật BHYT và các văn bản hướng dẫn. Theo đó, BHXH Việt Nam yêu cầu BHXH các tỉnh khẩn trương tổ chức thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc kịp thời báo cáo BHXH Việt Nam để được hướng dẫn giải quyết.
Trong bối cảnh tình hình dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp tại nhiều địa phương trên cả nước, BHXH Việt Nam luôn chủ động bám sát tình hình thực tiễn, kịp thời đưa ra những giải pháp quyết liệt, nhằm bảo đảm tối đa quyền lợi của người tham gia BHXH, BHYT, BHTN. Giải pháp trên của BHXH Việt Nam tiếp tục thể hiện quyết tâm, nỗ lực của Ngành nhằm chung tay cùng các cơ sở KCB BHYT đảm bảo và hỗ trợ tốt nhất cho người tham gia BHYT, phù hợp với tình hình, diễn biến dịch Covid-19 tại mỗi địa phương.
Thành Chung
Gói hỗ trợ của Chính phủ cần "gọi tên" báo chí
Trong khi nhiều doanh nghiệp đã được thụ hưởng những giải pháp hỗ trợ của Chính phủ, báo chí - đối tượng rất đặc thù, vẫn mòn mỏi chờ đợi đến lượt mình được gọi tên.
Mới đây, tại văn bản 5197/VPCP-KTTH ngày 30/7/2021 của Văn phòng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã đồng ý đề xuất của Bộ Tài chính về sự cần thiết bổ sung các giải pháp tiếp theo để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp chịu tác động của dịch Covid-19.
Theo văn bản này, Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các Bộ, cơ quan liên quan, trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp thứ nhất khóa XV, khẩn trương hoàn thiện đề xuất ban hành các văn bản pháp luật phù hợp theo trình tự thủ tục rút gọn về các giải pháp tiếp theo hỗ trợ người dân, doanh nghiệp chịu tác động của dịch Covid-19 đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước ngày 10/8/2021 để trình cấp thẩm quyền xem xét, quyết định.
Phó Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo cần tiếp tục rà soát, đánh giá kỹ các giải pháp chính sách hỗ trợ đã thực hiện vừa qua, trên cơ sở đó, xác định sự cần thiết phải điều chỉnh, bổ sung về đối tượng thụ hưởng, nội dung chính sách, thời hạn thực hiện... bảo đảm các chính sách phát huy hiệu quả cao nhất, hỗ trợ kịp thời cho người dân, doanh nghiệp; đồng thời lưu ý lấy đủ ý kiến các đối tượng chịu tác động của chính sách.
Phóng viên tác nghiệp trong khu vực cách ly. Ảnh: Quang Vinh.
Về đối tượng thụ hưởng, ngay từ năm ngoái khi dịch bắt đầu bùng phát, Hội Nhà báo Việt Nam đã có công văn số 73/CV-HNBVN ngày 31/3/2020 đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét hỗ trợ các cơ quan báo chí và người làm báo do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Tại văn bản này, Hội Nhà báo Việt Nam đã đánh giá rằng, dịch bệnh Covid-19 tác động tiêu cực đến mọi mặt kinh tế - xã hội khiến các cơ quan báo chí trong cả nước gặp nhiều khó khăn; nhiều cơ quan báo chí doanh thu phát hành, quảng cáo sụt giảm từ 40 - 50%; đồng thời, chi phí cho lực lượng phóng viên tác nghiệp trong khu vực có dịch tăng cao, ảnh hưởng đến hoạt động của các toà soạn cũng như đời sống của người làm báo.
Do vậy, Hội Nhà báo Việt Nam đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép các cơ quan báo chí được gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, miễn tiền phạt chậm nộp thuế. Đồng thời, cho phép các cơ quan báo chí được sử dụng quỹ phát triển sự nghiệp để chi cho một số hoạt động phục vụ công tác bảo vệ, tuyên truyền phòng chống dịch bệnh trong cơ quan như mua sắm vật tư, trang thiết bị, dụng cụ phục vụ công tác phòng chống dịch của cơ quan và phóng viên tác nghiệp tại hiện trường; bổ sung trang thiết bị công nghệ phục vụ các kênh họp chuyên môn trực tuyến hoặc tổ chức các sự kiện trực tuyến trong thời gian phòng chống dịch; điều tiết bổ sung cho Quỹ bổ sung thu nhập, đảm bảo để cán bộ, phóng viên an tâm tác nghiệp trong thời gian tuyên truyền phòng chống dịch bệnh.
Trao đổi với phóng viên, ông Hồ Quang Lợi - Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam bày tỏ tin tưởng rằng, gói hỗ trợ tới đây của Chính phủ sẽ bổ sung đối tượng thụ hưởng là các cơ quan báo chí.
Theo ông, báo chí không chỉ thực hiện các nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước như doanh nghiệp mà hơn thế nữa báo chí còn là lực lượng tham gia chống dịch bằng chính nguồn kinh phí của mình thông qua việc tuyên truyền, chuyển tải các chủ trương, chính sách, giải pháp của Đảng, Nhà nước về phòng chống dịch, phản ánh kịp thời việc thực thi chủ trương, chính sách đó, cũng như tham mưu, hiến kế các giải pháp vừa chống dịch vừa phát triển kinh tế.
Trong một phát biểu cách đây vài tháng, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam - Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch Covid-19 cũng đã đánh giá cao vai trò báo chí trong việc truyền tải nhanh, minh bạch, đầy đủ các thông tin về dịch bệnh và công tác phòng, chống dịch.
Ông nhấn mạnh: "Báo chí góp một phần rất quan trọng trong công tác phòng, chống dịch Covid-19, bởi chưa bao giờ thông tin về tình hình dịch bệnh đầy đủ, minh bạch, đồng loạt như lần này. Bên cạnh việc đưa tin, báo chí còn có nhiều bài phân tích sâu sắc, nhiều phóng sự đi vào lòng người".
Theo Phó Thủ tướng, việc thế giới ghi nhận, người dân tín nhiệm rất cao công tác phòng chống dịch của Việt Nam, bên cạnh sự chỉ đạo điều hành đúng đắn của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo quốc gia, các bộ ngành... thì có đóng góp lớn của những người làm công tác thông tin truyền thông.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng, báo chí là lực lượng trực tiếp cùng xung trận với y tế, công an, quân đội và phải có cơ chế để các nhà báo, tòa soạn bảo đảm an toàn khi tác nghiệp.
Đồng tình với đánh giá nói trên, TS. Cấn Văn Lực - chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng BIDV bày tỏ ngạc nhiên khi cho tới nay các cơ quan báo chí chưa được thụ hưởng chính sách hỗ trợ của Chính phủ. Vị chuyên gia cho rằng, các cơ quan báo chí xứng đáng được gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế GTGT, thuế thu nhập cá nhân; miễn tiền phạt chậm nộp thuế, tạo điều kiện để các cơ quan báo chí trả lương, nuôi sống các nhà báo trong bối cảnh nguồn thu suy giảm mạnh.
Vai trò của báo chí trong phòng chống dịch đã rõ, thế nhưng vẫn chưa được ghi tên vào đối tượng thụ hưởng, báo chí vẫn bị các cơ quan thuế xử phạt nếu chậm nộp thuế. PGS-TS. Trần Đình Thiên, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, đó là sự đối xử thiếu công bằng, cần được sửa đổi.
"Chí ít báo chí cũng phải được hỗ trợ như doanh nghiệp vì họ nộp thuế và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động có khác gì doanh nghiệp đâu", PGS-TS. Trần Đình Thiên nói.
Thiết nghĩ, không thể để chậm hơn nữa, chính sách hỗ trợ lần này của Chính phủ cần gọi tên báo chí, để đảm bảo cho sự công bằng tối thiểu.
Theo kinhtedothi.vn
Nguồn bài viết: https://kinhtedothi.vn/goi-ho-tro-cua-chinh-phu-can-goi-ten-bao-chi-429729.html
Doanh nghiệp giờ như cá trên cạn
TPHCM là đầu tàu kinh tế của cả nước, và cấu trúc kinh tế của trung tâm kinh tế này lại phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động thương mại dịch vụ, với rất nhiều doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ, cũng như thành phần kinh tế phi chính thức. Nếu thực hiện giãn cách xã hội để phòng chống dịch Covid-19 quyết liệt mà không kèm theo các giải pháp hỗ trợ thì e rằng các “mạch máu nhỏ” sẽ bị vỡ nhiều, theo dây chuyền.
Doanh nghiệp giờ như cá trên cạn.
Sau 15 ngày áp dụng Chỉ thị 16 để phòng chống dịch Covid-19, chính quyền TPHCM đã quyết định gia hạn và tăng cường đến ngày 1-8-2021. Đây là quyết định cần thiết trong bối cảnh tốc độ lây nhiễm tăng nhanh và sức chịu đựng của hệ thống y tế có lẽ đã tới hạn. Nhưng sức chịu đựng của doanh nghiệp cũng… tới hạn thì làm sao?
Hỗ trợ đâu chỉ có tiền
Theo Cục Thống kê TPHCM, lĩnh vực thương mại, dịch vụ chiếm đến 62,39% GRDP năm 2020 của thành phố. Trong số đó, cao nhất là thương nghiệp bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy; vận tải kho bãi; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, và một phần đáng kể là dịch vụ lưu trú và ăn uống.
Số lượng doanh nghiệp đăng ký hoạt động ở TPHCM theo Sách trắng doanh nghiệp năm 2020 chiếm khoảng 31,6% số doanh nghiệp của cả nước. Trong số gần 250.000 doanh nghiệp thì doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm đến 72,5%, doanh nghiệp nhỏ chiếm 23,2%. Như vậy số lượng doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ đã chiếm đến 95,7% tổng số doanh nghiệp ở thành phố này. Tính riêng lĩnh vực dịch vụ đã chiếm 68,8% về số doanh nghiệp và 53,6% số lao động. Tính ra trung bình mỗi doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ ở TPHCM có khoảng 11,57 lao động.
Nêu ra các con số ở trên để thấy rằng đặc thù kinh tế của TPHCM là dựa vào thương mại, dịch vụ, và mạng lưới chằng chịt các doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ, và đó là chưa tính đến khu vực kinh tế phi chính thức.
Cho nên nếu tiếp tục thực hiện Chỉ thị 16 một cách quyết liệt theo kiểu ngăn sông cấm chợ, không rõ ràng và nhất quán trong việc quy định các hàng hóa dịch vụ được phép lưu thông thì hệ thống chằng chịt các luồng hàng và tiền sẽ bị nghẽn, bị vỡ một khi không có các giải pháp hỗ trợ phù hợp.
Việt Nam cũng như các nước đang phát triển còn nghèo khác, có thể không đủ nguồn lực để hỗ trợ tài chính trực tiếp cho doanh nghiệp thông qua hỗ trợ chi phí lương, chi phí hoạt động, nếu có thì chủ yếu là hoãn hay giãn thuế. Nhưng điều có thể làm là tìm cách để cho các doanh nghiệp tiếp tục hoạt động đồng thời tuân thủ các biện pháp phòng dịch an toàn.
Thương nghiệp bán buôn, bán lẻ, vận tải kho bãi là những trụ cột của kinh tế ở TPHCM, vì vậy cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực này để giữ cho việc lưu thông hàng hóa được tiếp diễn. Một số nơi gây khó khăn cho hoạt động giao nhận hàng hóa là rất cực đoan.
Các hoạt động thương mại khác nếu tuân thủ được việc hạn chế tiếp xúc trực tiếp giữa người với người, tập trung đông người, thì vẫn nên được duy trì. Trong giai đoạn giãn cách xã hội toàn bộ ở nước Pháp trước đây, chính quyền địa phương nhiều nơi đã hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ của địa phương bằng việc tạo ra trang web để các cửa hàng đăng sản phẩm của mình. Người dân cần mua thứ gì có thể tìm theo thể loại trên trang này.
Các doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ gặp khó khăn không chỉ về tài chính. Họ còn khó khăn trong việc huy động, sử dụng các nguồn lực, thị trường đầu ra, cũng như các chương trình đào tạo/chuyển đổi để thích ứng. Lấy ví dụ như quy định “ba tại chỗ” (làm việc, ăn, nghỉ tại doanh nghiệp), không phải doanh nghiệp nào cũng có thể sắp xếp! Có doanh nghiệp duy trì hoạt động được nhưng nguồn khách hàng trước đây bị mất, giờ tìm nguồn khách hàng mới như thế nào? Các doanh nghiệp lớn thì kế hoạch B hay C dễ dàng thực hiện hơn các doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ…
Nếu có hỗ trợ thì đành lựa chọn
Giai đoạn này ở TPHCM việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ phải được xem như là cấp cứu, qua được giai đoạn này rồi thì mới tính được sẽ phục hồi như thế nào.
Vì số lượng doanh nghiệp cần được hỗ trợ gấp nhiều nên nếu trường hợp có ngân sách, thì việc hỗ trợ chỉ nên hướng đến các doanh nghiệp dễ bị tổn thương nhất nhưng vẫn có cơ hội hồi phục được. Việc xác định khả năng có thể phục hồi được theo kinh nghiệm của nhiều nước thì hãy để các bên có liên quan xác nhận, như bên cho vay hay bên có các quyền lợi liên quan, còn chính phủ chỉ là bên trung gian tham gia cùng trong các buổi thảo luận.
Một kinh nghiệm khác trong hỗ trợ các doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ là việc thông tin rộng rãi và rõ ràng các chính sách hỗ trợ. Bởi vì, các doanh nghiệp này ít khi quen với việc theo dõi sát sao các chính sách như các doanh nghiệp lớn. Việc chuẩn bị hồ sơ, điều kiện để đáp ứng được các yêu cầu của chính sách hỗ trợ nhiều khi vượt quá khả năng của doanh nghiệp, cân nhắc được mất sẽ khiến cho doanh nghiệp thà không yêu cầu nhận hỗ trợ còn hơn.
Nhiều doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ trong giai đoạn này và sắp tới sẽ gặp khó khăn về dòng tiền, do đó các hỗ trợ tài chính nếu có cần là hình thức trực tiếp, hoặc giãn các nghĩa vụ phải trả tức thời. Các chi phí đáng kể như là lương - bao gồm bảo hiểm xã hội, các chi phí cố định là những khoản mà doanh nghiệp sẽ phải đương đầu nếu giãn cách kéo dài.
Kinh nghiệm của nhiều nền kinh tế hỗ trợ doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ trong giai đoạn chống dịch Covid-19 đã được tổng kết vì nhiều nước đã cơ bản khống chế được dịch, đang dần chuyển sang giai đoạn mở cửa trở lại và chuẩn bị phục hồi kinh tế. Việt Nam và đặc biệt là đầu tàu kinh tế TPHCM đang ở trong giai đoạn khó khăn nhất. Việc hỗ trợ tài chính trực tiếp có vẻ khó trở thành hiện thực với điều kiện hiện nay của Việt Nam. Do đó, các chính sách và biện pháp phi tài chính cần được thực hiện hết mức có thể. Bằng mọi giá không thể để các dòng dịch chuyển hàng hóa, tiền tệ bị tắc nghẽn, vì nếu như vậy sẽ bị vỡ trận và dẫn đến vỡ dây chuyền.
Theo doanhnghiephoinhap.vn
Nguồn bài viết: https://doanhnghiephoinhap.vn/doanh-nghiep-gio-nhu-ca-tren-can.html
Nhiều doanh nghiệp kỳ vọng giảm thuế, phí trong gói hỗ trợ 24.000 tỷ đồng
Mới đây, Chính phủ giao Bộ Tài chính nghiên cứu, đề xuất gói hỗ trợ COVID-19 mới về thuế, phí cho doanh nghiệp khó khăn vì COVID-19, ước tính khoảng 24.000 tỷ đồng.
Đại dịch Covid bùng phát, nhiều doanh nghiệp lữ hành - du lịch gặp khó khăn, ngưng trệ hoạt động đến nay. Nhiều doanh nghiệp cho biết, hỗ trợ về thuế thu nhập doanh nghiệp ít ý nghĩa, do doanh nghiệp ngành này hầu như không hoạt động được. Doanh nghiệp kỳ vọng được giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) và các khoản phí trong gói hỗ trợ mới.
"Thuế giá trị gia tăng tôi xin đề xuất với doanh nghiệp sản xuất giảm xuống 5%, với ngành lữ hành du lịch giảm từ 7% đến miễn giảm thuế. Tôi cũng đề xuất miễn hoàn toàn phí đường bộ và phí đăng kiểm cho doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải", ông Hồ Xuân Phúc, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Du lịch Thương mại và Đầu tư Hà Nội Hanotours, nêu đề xuất.
Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Hà Nội cho biết, những chính sách về giảm thuế, phí là những hỗ trợ rất sát sườn. Nhiều ngành nghề, lĩnh vực, doanh nghiệp phải gánh trên 30 khoản thuế, phí khác nhau.
Nhiều doanh nghiệp du lịch, lữ hành bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19
"Với gói 24.000 tỷ này, chúng tôi mong muốn rằng các khoản đó chi trực tiếp vào các khoản thuế, phí doanh nghiệp đang gánh. Hiện doanh nghiệp rất muốn giữ chân người lao động để sản xuất kinh doanh, nhưng các loại phí, chi phí người lao động phải chịu thì chúng ta cố gắng giảm", ông Mạc Quốc Anh - Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Hà Nội, cho hay.
Bên cạnh đó, Hiệp hội Da - Giày - Túi xách Việt Nam cho rằng, những gói hỗ trợ giãn, hoãn thuế, doanh nghiệp ngành này tiếp cận còn chậm. Hiện tại, nhiều doanh nghiệp ngành da giày phải ngừng sản xuất, không có doanh thu. Hiệp hội kỳ vọng gói hỗ trợ mới sẽ có thời hạn dài hơn, từ 1 - 2 năm để doanh nghiệp đủ sức phục hồi.
Trước đó vào tháng 4, Chính phủ đã ban hành Nghị định 52 về gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất cho các doanh nghiệp, tổ chức đến hết năm 2021, ước khoảng 115.000 tỷ đồng.
Trước khi hoàn thiện quá trình nghiên cứu và báo cáo lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ để quyết định, cộng đồng doanh nghiệp đang tích cực đóng góp ý kiến cho chính sách này.
Theo thuonghieucongluan.com.vn
Nguồn bài viết: https://thuonghieucongluan.com.vn/nhieu-doanh-nghiep-ky-vong-giam-thue-phi-trong-goi-ho-tro-24-000-ty-dong-a141683.html
Nhiều doanh nghiệp hàng không, du lịch, nhà hàng, khách sạn, vận tải... đang “chết mòn” vì đại dịch
Đại biểu Vũ Tiến Lộc - (Đoàn Hà Nội) nhấn mạnh tại phiên thảo luận về tình hình kinh tế, xã hội 6 tháng đầu năm, phương hướng 6 tháng cuối năm và giải pháp phòng chống Covid-19, sáng 25/7.
Ngày 25/7, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội thảo luận tại hội trường về: Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH, NSNN 6 tháng đầu năm, các giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH, NSNN 6 tháng cuối năm 2021 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.
Điều hành chính sách tiền tệ, tài chính sách linh hoạt, hợp lý, có trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp
Đa số các đại biểu tán thành với nội dung trong Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội về đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm, các giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước 6 tháng cuối năm 2021.
Đại biểu Trần Văn Tiến (Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc)
Trong điều kiện khó khăn, dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp trong nước và trên thế giới, các đại biểu đánh giá cao kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm 2021, nhất là việc thực hiện mục tiêu kép vừa đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội, vừa đảm bảo công tác phòng chống dịch Covid-19.
Bên cạnh đó, nhiều sự kiện chính trị quan trọng được tổ chức thành công như cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2025, việc kiện toàn bộ máy Nhà nước được nhân dân đánh giá cao.
Kinh tế tiếp tục phát triển ổn định, 6 tháng đầu năm đạt 5,64%, được đánh giá là đạt mức tăng trưởng cao so với kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Sau khi dịch Covid-19 bùng phát, Việt Nam là quốc gia duy nhất được 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm đồng loạt nâng triển vọng kinh tế của Việt Nam từ “ổn định” lên “tích cực”.
Kinh tế vĩ mô được ổn định, lạm phát được kiểm soát, cơ cấu chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỉ trọng dịch vụ và giảm tỉ trọng nông-lâm-thủy sản. Đầu tư khu vực Nhà nước tiếp tục giảm, đầu tư khu vực ngoài Nhà nước tiếp tục tăng, góp phần ổn định kinh tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, các đại biểu cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém còn tồn tại hiện nay, như việc phân bổ vốn kế hoạch đầu tư công đến nay chưa hết, chi đầu tư phát triển đạt thấp bằng 28,1% kế hoạch, thấp hơn cùng kỳ, tỉ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt 29,02% kế hoạch... đặc biệt tỉ lệ giải ngân vốn ngoài Nhà nước rất thấp, việc cổ phần hóa sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước đạt thấp, tình trạng nợ đọng thuế tiếp tục tăng, năng lực và sức chống chọi của doanh nghiệp còn yếu, môi trường đầu tư chưa thực sự hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài...
Từ những tồn tại, hạn chế nêu trên, các đại biểu cũng đề xuất nhiều giải pháp trong 6 tháng cuối năm để thúc đẩy kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội nhất là trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay.
Đại biểu Trần Văn Tiến (Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc), đề nghị: Thứ nhất, cần huy động mọi nguồn lực và ưu tiên để phòng, chống dịch Covid-19, khống chế dịch lây lan ra cộng đồng, đảm bảo hiệu quả nhất;
Thứ hai, chủ động điều hành chính sách tiền tệ, tài chính sách linh hoạt, hợp lý, có trọng tâm nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhanh chóng phục hồi sản xuất kinh doanh;
Thứ ba, tập trung nhiên cứu, ban hành cơ chế chính sách nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh giảm bớt khó khăn và phục hồi sản xuất kinh doanh;
Thứ tư, tập trung rà soát và khắc phục những khó khăn, vướng mắc về thể chế nhằm tháo gỡ khó khăn về sản xuất kinh doanh, đồng thời tạo môi trường thông thoáng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài;
Thứ năm, đẩy nhanh tiến độ đầu tư giải ngân vốn đầu tư và tiến độ giải ngân các gói hỗ trợ đúng và đủ đối tượng, đồng thời quản lý, kiểm soát thu chi chặt chẽ ngân sách nhà nước và mua sắm tài sản công bằng nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Nhiều doanh nghiệp đang “chết mòn” vì đại dịch
Đại biểu Vũ Tiến Lộc đánh giá, trong 6 tháng đầu năm 2021, cùng với quá trình chuyển giao bộ máy lãnh đạo cao nhất của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, chúng ta đã trải qua một giai đoạn gian nan bậc nhất của nền kinh tế suốt trong nhiều thập kỷ qua.
Nhưng với tinh thần “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chung tay của Quốc hội và nỗ lực của toàn dân, Chính phủ đã khá chủ động, linh hoạt, uyển chuyển trong việc đối phó với dịch Covid-19, để vừa bảo đảm thực hiện mục tiêu vừa chống dịch vừa duy trì sản xuất kinh tế.
Đại biểu Vũ Tiến Lộc - (Đoàn Hà Nội) tại phiên thảo luận về tình hình kinh tế, xã hội 6 tháng đầu năm
“Chúng ta vừa chăm lo sinh mệnh người dân, vừa nỗ lực bảo vệ sinh kế cho người dân, đây là mục tiêu kép, cả hai mục tiêu này đều rất hệ trọng. Và chúng ta đã đạt được những kết quả bước đầu. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng chăm lo, củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy cải cách thể chế ngay trong bối cảnh khó khăn”, đại biểu Vũ Tiến Lộc bày tỏ.
Về tăng trưởng kinh tế 7 tháng đầu năm 2021, đại biểu Vũ Tiến Lộc cho rằng, Việt Nam đạt nhịp độ tăng trưởng 5,64% nhưng chưa như kỳ vọng. Tuy nhiên, nếu so với khu vực thì đây là một tỉ lệ rất cao. Kết quả chưa như kỳ vọng vì thực trạng kinh tế tại thời điểm đầu quý III/2021 đã xấu đi rất nhiều.
Đây là vấn đề chúng ta cần tính toán thận trọng trong kế hoạch phát triển ở những tháng cuối năm. Nếu chỉ căn cứ vào con số của 6 tháng đầu năm thì thấy có sự phân hóa rất lớn trong sự phát triển của các khu vực trong nền kinh tế.
Tại khu vực kinh tế đối ngoại thì phục hồi rất mạnh mẽ, với tổng kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng hơn 30% so với năm 2020. Trong khu vực kinh tế trong nước lại rơi vào tình trạng trầm lắng do sức mua yếu.
Tổng mức bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm gần như đứng yên so với cùng kỳ 2 năm trước. Tốc độ tăng trưởng dịch vụ chỉ tương đương tốc độ tăng trưởng thấp ở khu vực nông, lâm, ngư nghiệp, chưa bằng ½ khu vực công nghiệp, xây dựng.
“Đây là tín hiệu rất lo ngại vì chúng ta vẫn kỳ vọng vào sự tăng trưởng của khu vực dịch vụ như “ngôi sao hy vọng” của nền kinh tế Việt Nam”, đại biểu Vũ Tiến Lộc nói.
Theo đại biểu, sự tương phản này là từ đại dịch Covid-19. Các biện pháp giãn cách xã hội đang được tăng cường đã khiến cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là DNNVV, cụ thể là các doanh nghiệp dịch vụ.
Trong khu vực dịch vụ, ngoài tài chính, ngân hàng, bảo hiểm thì các lĩnh vực khác như hàng không, du lịch, nhà hàng, khách sạn, vận tải... cũng là những vùng trũng của nền kinh tế trong thời điểm hiện tại.
Nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực hàng không, du lịch, nhà hàng, khách sạn, vận tải... đang “chết mòn”, thậm chí không còn khả năng vực dậy sau đại dịch, nếu không có biện pháp hỗ trợ thiết thực và mạnh mẽ.
Trong bối cảnh đó, đại biểu Vũ Tiến Lộc hoàn toàn đồng tình với những định hướng lớn của Chính phủ đã và đang thực hiện.
Thứ nhất, đó là đẩy mạnh tiêm vaccine, đặc biệt tại các khu vực động lực tăng trưởng của nền kinh tế để vừa bảo vệ sinh mạng người dân, vừa duy trì sản xuất kinh doanh, vừa tránh đứt, gãy nguồn cung.
Thứ hai, chuẩn bị lộ trình mở cửa nền kinh tế tương ứng với tỉ lệ tiêm vaccine của người dân.
Thứ ba, giải pháp của Chính phủ về quyết tâm giải ngân 100% vốn đầu tư trong năm 2021, cắt giảm, thu hồi của các bộ, địa phương làm chưa tốt để bổ sung cho các cơ quan trung ương và địa phương có tốc độ giải ngân tốt.
Với bối cảnh chính sách tiền tệ không còn nhiều dự địa trong việc chống lạm phát trong tương lai, đại biểu Vũ Tiến Lộc đánh giá cao việc Ngân hàng Nhà nước đã thống nhất và đồng thuận với các ngân hàng thương mại trong việc cố gắng giảm lãi suất.
Với gói hỗ trợ 26.000 tỷ đồng được Chính phủ ban hành cũng được ghi nhận khi cắt giảm được thủ tục hành chính để giải ngân nhanh.
Bên cạnh đó, chính sách tài khóa của Bộ Tài chính cũng rất tích cực, nhưng tại thời điểm hiện nay khi doanh thu của doanh nghiệp không nhiều, nên theo đại biểu việc hỗ trợ từ nhà nước sẽ hiệu quả hơn nếu tăng chi tiêu cho các đối tượng yếu thế.
Trong trường hợp này vừa tăng kích thích tiêu dùng, vừa giải quyết được vấn đề xã hội. Như vậy, một mũi tên sẽ trúng được hai đích.
Trong lĩnh vực dịch vụ, theo đại biểu, điều kiện quan trọng nhất là trợ giúp tài chính, nhưng tăng cường hộ chiếu vaccine cũng rất cần thiết. Hộ chiếu vaccine không chỉ hiểu là dành cho khách du lịch quốc tế đến Việt Nam mà phải dành cho toàn dân Việt Nam.
“Khi chúng ta có được tỉ lệ người dân tiêm đủ 2 mũi vaccine thì đây sẽ là động lực để nền kinh tế có thể quay trở lại”, đại biểu Vũ Tiến Lộc nói.
Trong các giải pháp cải cách thể chế, ông Vũ Tiến Lộc cũng rất đồng tình với Chính phủ đã tập trung rà soát những thủ tục bất hợp lý, chồng chéo để kiến nghị Quốc hội sửa đổi.
“Chúng tôi đánh giá cao việc Chính phủ thành lập các tổ công tác đặc biệt để thúc đẩy hỗ trợ các dự án sớm triển khai. Nhưng không chỉ với các dự án đầu tư công, FDI... mà các dự án của tư nhân đang gặp trở ngại về thủ tục cũng cần được hỗ trợ để đẩy nhanh giải quyết các thủ tục nhằm đưa nhanh dự án vào sản xuất kinh doanh”, đại biểu Vũ Tiến Lộc kiến nghị.
Theo kinhtedothi.vn
Nguồn bài viết: https://kinhtedothi.vn/nhieu-doanh-nghiep-hang-khong-du-lich-nha-hang-khach-san-van-tai-dang-chet-mon-vi-dai-dich-428532.html