Nghiên cứu cơ chế chính sách hướng đến môi trường thuận lợi hơn cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển

(Pháp lý). Bài viết “Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng” của Tổng Bí thư Tô Lâm đánh dấu một bước ngoặt trong nhận thức về vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân (KTTN), đồng thời mang tầm nhìn chiến lược đối với định hướng phát triển đất nước. Nghiên cứu thúc đẩy sửa đổi bổ sung một cơ chế chính sách hướng đến môi trường thuận lợi hơn cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển là điều rất cần thiết ở thời điểm hiện nay.
1-1743146915.jpg

Phát biểu kết luận tại buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương về phát triển kinh tế tư nhân ngày 7/3/2025 vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm đề nghị Ban Chính sách, chiến lược Trung ương tích cực phối hợp với Đảng ủy Chính phủ và các cơ quan trong xây dựng Nghị quyết về kinh tế tư nhân trình Bộ Chính trị ban hành.

Thực tiễn cho thấy những quy định của pháp luật hiện hành dù đã có, nhưng chưa đủ mạnh để thúc đẩy và phát huy thế mạnh của kinh tế tư nhân.  Nghiên cứu thúc đẩy xây dựng một cơ chế chính sách hướng đến môi trường thuận lợi hơn cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển là điều rất cần thiết ở thời điểm hiện nay. Đây là yêu cầu thực tiễn đặt ra không chỉ để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, mà còn là một trong những giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng 2 con số.

Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong phát triển đất nước

Mặc dù môi trường kinh doanh chưa thuận lợi, đối mặt với tình trạng phân biệt đối xử về đất đai, vốn, thị trường; gặp bất lợi về thuế, hải quan giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI; nhưng với ý trí vươn lên, khát khao khẳng định chỗ đứng của doanh nghiệp Việt, trong những năm qua, khu vực doanh nghiệp tư nhân phát triển nhanh về số lượng; đã xây dựng được một số doanh nghiệp tư nhân lớn, có trình độ về công nghệ và quản trị, có thương hiệu, đạt tầm khu vực và thế giới… góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Một số doanh nghiệp tư nhân lớn đã linh hoạt, chủ động chuyển đổi, đầu tư vào các ngành công nghiệp mới; đổi mới mô hình sản xuất theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững; từng bước dẫn dắt, lan tỏa, thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế, ngày càng khẳng định vai trò và đóng góp quan trọng trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

Hiện khu vực kinh tế tư nhân đang tạo ra khoảng 51% GDP của nền kinh tế, đóng góp khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút 85% lực lượng lao động, là động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế. Trong bối cảnh kinh tế ổn định, không chịu tác động bởi các cú sốc từ bên ngoài, tốc độ tăng của kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng của toàn nền kinh tế.

2-1743146915.jpg

Thủ tướng trao đổi với lãnh đạo các tập đoàn kinh tế tư nhân

Vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân chiếm trên 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trên góc độ sử dụng hiệu quả vốn sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân cần 1,61 đồng vốn để tạo ra 1 đồng doanh thu thuần, doanh nghiệp nhà nước cần 2,66 đồng.

Cộng đồng doanh nhân năng động, sáng tạo, có ý chí tự lực, tự cường, tinh thần cống hiến cho dân tộc. Nhiều doanh nhân đưa ra chiến lược sản xuất kinh doanh dài hạn, bền vững nhằm tạo dựng, phát triển và củng cố thương hiệu, đây là yếu tố quan trọng cho sự phát triển nhanh, bền vững của doanh nghiệp và nền kinh tế.

Sự đóng góp và vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân đã được Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: "Kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển và trưởng thành vượt bậc, đóng góp to lớn vào nền kinh tế và quá trình đổi mới, phát triển đất nước mặc dù trong điều kiện hoạt động còn nhiều khó khăn, bất cập". Tổng Bí thư khẳng định: "Kinh tế tư nhân nước ta trở thành một trong những trụ cột quan trọng hàng đầu của nền kinh tế và ngày càng thể hiện là động lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia".

Kinh tế tư nhân đang đối mặt với nhiều rào cản chính sách

Thực tiễn cho thấy những quy định của pháp luật hiện hành dù đã có, nhưng chưa đủ mạnh để thúc đẩy và phát huy thế mạnh của kinh tế tư nhân . Trong những năm qua, mặc dù đã có những đột phá về cải cách thể chế, hoàn thiện môi trường pháp lý về đầu tư kinh doanh với nhiều kết quả đáng khích lệ. Tuy vậy, kinh tế tư nhân vẫn đang phải đối mặt với nhiều rào cản trong chính sách và thực thi chính sách. Hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật còn thiếu minh bạch, thiếu cụ thể, chưa ổn định; những vướng mắc, bất cập về thể chế chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời cho phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển, khả năng tiên liệu thấp dẫn đến rủi ro gia tăng cho khu vực kinh tế tư nhân.

Bất cập về môi trường pháp lý, khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng, đất đai, cùng với tệ quan liêu, nhũng nhiễu của một bộ phận công chức trong bộ máy công quyền đã đưa đến thực trạng cơ cấu ngành bất hợp lý của khu vực doanh nghiệp tư nhân. Số doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ chiếm tới 66,8% trong tổng số doanh nghiệp của toàn nền kinh tế, đây là rào cản rất lớn để xây dựng và phát triển mạng lưới công nghiệp hỗ trợ và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Trong bài viết: "Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng", Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ những bất cập hiện kinh tế tư nhân đang phải đối mặt: "Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, chồng chéo, môi trường kinh doanh nhiều trở ngại, thủ tục hành chính phức tạp, tốn nhiều thời gian, chi phí và tiềm ẩn rủi ro. Nhiều trường hợp quyền tự do kinh doanh và quyền tài sản vẫn bị xâm hại bởi sự yếu kém hoặc lạm quyền của một số cán bộ công chức trong thực thi công vụ".

Doanh nghiệp tư nhân đông về số lượng nhưng đa số là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nội lực tồn tại và năng lực cạnh tranh thấp; công nghệ và phương thức sản xuất lạc hậu. Hiện nay, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo về cơ bản dừng lại ở trình độ lắp ráp - Trình độ thấp nhất trong 4 cấp độ công nghiệp hóa.

3-1743146915.jpg

Trong những năm qua, doanh nghiệp ngoài nhà nước phát triển nhanh về số lượng; đã xây dựng được một số doanh nghiệp tư nhân lớn, có thương hiệu, đạt tầm khu vực và thế giới

Nhìn ra một số nước trên thế giới

- Trung Quốc: Kinh tế tư nhân hiện đóng góp hơn 60% GDP, tạo ra 80% việc làm ở thành thị và hơn 70% phát minh, sáng chế trong nền kinh tế Trung Quốc. Các doanh nghiệp tư nhân chiếm phần lớn trong các ngành công nghiệp như sản xuất, dịch vụ, và đặc biệt là công nghệ cao.

Trong giai đoạn 2013 - 2018, Trung Quốc tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ mạnh mẽ cho sự phát triển của kinh tế tư nhân, cam kết tạo môi trường thuận lợi cũng như hỗ trợ nhiều hơn nữa cho lĩnh vực này. Đại hội XIX của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra nhiều định hướng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt trong các hệ thống cận thị trường, hệ thống quyền tài sản và thương mại.

Trong quãng thời gian từ 2019 - 2021, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ Trung Quốc tiếp tục giảm thuế cho các doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích phát hành trái phiếu, và cải thiện môi trường pháp lý. Đồng thời, doanh nghiệp tư nhân được khuyến khích tăng cường đổi mới khoa học, công nghệ và nâng cấp công nghiệp. Những chính sách này góp phần đẩy nhanh sự phát triển của kinh tế tư nhân. Năm 2021, số lượng doanh nghiệp tư nhân thành lập mới đã lên tới 8,525 triệu, tăng 11,7% so với năm 2020.

Trung Quốc từ đầu thế kỷ XXI đã ban hành hàng loạt chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân như Alibaba, Tencent, Huawei, giúp họ vươn lên trở thành những tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới.

Tại Hội nghị Công tác Kinh tế Trung ương Trung Quốc năm 2022, Tổng Bí thư Tập Cận Bình nhấn mạnh: cần khuyến khích, hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân từ góc độ chính sách và dư luận xã hội. Ông Tập khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân, nhấn mạnh doanh nghiệp tư nhân là của đất nước, là lực lượng quan trọng thực hiện giấc mơ trẻ hóa dân tộc của Trung Quốc; trong hành trình mới xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa hiện đại một cách toàn diện, kinh tế tư nhân của Trung Quốc phải chuyển sang một giai đoạn phát triển rộng lớn hơn.

Tổng Bí thư Trung Quốc Tập Cận Bình đã chỉ ra: kinh tế tư nhân là chủ thể quan trọng để thúc đẩy cải cách cơ cấu bên cung, thúc đẩy phát triển chất lượng cao, xây dựng hệ thống kinh tế hiện đại...Và đã liên tục đưa ra các yêu cầu rõ ràng về tăng cường bảo vệ quyền sở hữu, thúc đẩy tinh thần kinh doanh, tối ưu hóa môi trường kinh doanh, hỗ trợ cải cách và phát triển doanh nghiệp tư nhân; đồng thời, xây dựng mối quan hệ giữa hệ thống chính trị và doanh nghiệp thân thanh (thân: quan tâm, phục vụ, hiểu nhu cầu của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tháo gõ khó khăn, tăng niềm tin; thanh: trao đổi Chính phủ - doanh nghiệp phải trong sạch, trung thực, tránh sử dụng quyền lực để thu lợi cá nhân... không để xảy ra các giao dịch trục lợi).

Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các cơ quan liên quan của Quốc Vụ viện Trung Quốc, các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp đã đưa ra một loạt các biện pháp chính sách về tiếp cận thị trường, môi trường kinh doanh, giảm thuế, phí và hỗ trợ tài chính, hỗ trợ mạnh mẽ cho sự phát triển và tăng trưởng của kinh tế tư nhân (theo Ban Cán sự Đảng Liên đoàn Công thương Toàn quốc Trung Quốc, 2023).

- Lĩnh vực tư nhân của Hàn Quốc đã phát triển mạnh mẽ trong nhiều thập kỷ qua và đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế của quốc gia này.

Tại Hàn Quốc, từ thập niên 1960-1980, Chính phủ đã hỗ trợ các chaebol như Samsung, Hyundai, LG thông qua chính sách tài chính ưu đãi, thúc đẩy xuất khẩu và đổi mới công nghệ, biến những tập đoàn này thành trụ cột của nền kinh tế. Nhật Bản cũng áp dụng mô hình keiretsu, với các tập đoàn như Toyota, Mitsubishi, Hitachi, tạo ra sự kết nối chặt chẽ giữa sản xuất, tài chính và công nghệ.

Trong những năm gần đây, Chính phủ Hàn Quốc đã thúc đẩy các ngành công nghệ cao, giới hạn như trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học và năng lượng xanh, thúc đẩy sự đổi mới và đa dạng nền kinh tế. Kinh tế tư nhân tiếp tục là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới của Hàn Quốc trên trường quốc tế.

4-1743146915.png

Ảnh minh họa

Điểm chung của các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc là nhà nước không chỉ điều tiết, mà còn chủ động kiến tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ, từ đó tạo ra sức lan tỏa cho toàn bộ nền kinh tế.

Hàn Quốc từ đầu những năm 2000 đã đẩy mạnh chính phủ điện tử, giúp giảm thủ tục hành chính và chi phí tuân thủ pháp luật. Trung Quốc liên tục cải cách thể chế, giúp doanh nghiệp tư nhân dễ dàng tiếp cận vốn và thị trường. Việt Nam cũng đang đi theo hướng này với chính phủ điện tử, số hóa thủ tục hành chính và cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho KTTN phát triển mạnh mẽ hơn.

Nhìn vào mô hình Đông Bắc Á, có thể thấy các nước này đều thành công nhờ đầu tư mạnh vào công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trung Quốc đã trở thành trung tâm công nghệ toàn cầu với sự phát triển mạnh mẽ của Alibaba, Tencent, ByteDance, Huawei, nhờ sự hỗ trợ về chính sách và tài chính. Hàn Quốc đầu tư mạnh vào R&D, giúp Samsung và LG trở thành những tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới. Nhật Bản từ lâu đã đi tiên phong trong nghiên cứu và phát triển, với sự hỗ trợ của Chính phủ trong các lĩnh vực robotics, ô tô, điện tử.

-  Nhiều nước sử dụng chính sách tài chính, thúc đẩy KTTN. Nhận thức được tầm quan trọng của khu vực KTTN đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, chính phủ nhiều nước đã sử dụng chính sách tài chính như một giải pháp hiệu quả và tất yếu để thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế này. Các chính sách tài chính mà các nước sử dụng thường tập trung vào các nhóm chính sách cơ bản dưới đây:

+ Ưu đãi thuế là một trong những công cụ tài chính được hầu hết các quốc gia trên thế giới sử dụng trong việc hỗ trợ và thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển, trong đó, phổ biến nhất là giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) cho các DNNVV và các DNKN.

Ở các nước, mức thuế TNDN được ưu tiên đối với DNNVV, thông thường các DNNVV giảm hơn so với mức thuế suất phổ thông khoảng 5%; phố biến ở các mức thuế suất 10%, 15%, 17%, 19% và 20%). Tuy nhiên, các DNNVV muốn được áp dụng chính sách giảm thuế nói trên cần phải thỏa mãn điều kiện quy định và các điều kiện này ở các nước là không giống nhau. Ví dụ như Thái Lan miễn thuế cho các DNNVV có thu nhập chịu thuế từ 300.000 Baht trở xuống. Tại Singapore, các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở tất cả các lĩnh vực được xác định theo tiêu chí doanh thu hoạt động không quá 100 triệu $ và số lượng lao động không quá 200 người. Tại Trung Quốc, DNNVV muốn được ưu đãi thuế thì phải đáp ứng 03 tiêu chí: (i) thu nhập tính thuế hàng năm dưới 3 triệu nhân dân tệ; (ii) số lao động dưới 300 người; (iii) tổng tài sản dưới 50 triệu nhân dân tệ. Tại Campuchia, các DNNVV được xác định theo tiêu chí doanh thu và số lao động: (i) doanh nghiệp nhỏ có doanh thu hàng năm trong khoảng 62.500 - 175.000 USD và số lao động trong khoảng 10-50 người; (ii) doanh nghiệp vừa có doanh thu hàng năm trong khoảng 175 nghìn đến 1 triệu USD và số lao động từ 51-100 người.

+  Chính sách tín dụng là một trong những chính sách quan trọng giúp khu vực tư nhân tiếp cận nguồn vốn nhanh và chủ động. Nhiều quốc gia đã thành lập các tổ chức hoặc các quỹ riêng biệt để cung cấp tín dụng ưu đãi cho khu vực kinh tế tư nhân (thường tập trung cho các DNNVV, DNKN). Ngoài ra, nhiều nước còn áp dụng cơ chế bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân vốn là những doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn ngân hàng do hạn chế về tài sản đảm bảo để giúp các doanh nghiệp này thuận lợi hơn trong quá trình tiếp cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại.

+  Hỗ trợ tài chính trực tiếp từ ngân sách quốc gia thường được các chính phủ sử dụng để thúc đẩy sự phát triển của khu vực KTTN trong một số lĩnh vực đặc thù, hoặc đối với quá trình khởi nghiệp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này.

- Ở Mỹ, chính phủ đầu tư vốn từ NSNN vào DNKN theo hình thức hợp tác công - tư. Bên cạnh việc hỗ trợ cho các DNKN, chính phủ Mỹ còn thực hiện hỗ trợ tài chính trực tiếp (trợ cấp bằng tiền hoặc cung cấp các khoản vay) cho một số lĩnh vực đặc thù. Hai trong số các lĩnh vực đó là lĩnh vực nông nghiệp và lĩnh vực năng lượng sạch. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, chính phủ liên bang đã thực hiện hỗ trợ nông dân để giữ đất canh tác và trợ giá cho nông dân để họ duy trì lợi nhuận. Trong giai đoạn 1995 - 2010, hỗ trợ tài chính của chính phủ Mỹ cho nông nghiệp trung bình mỗi năm đã lên tới 52 tỷ USD.

Bước ngoặt trong nhận thức về vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân (KTTN)

Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã ra Nghị quyết 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết xác định: "Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển".

Gần đây, trong bài viết “Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng”, Tổng Bí thư  Tô Lâm khẳng định rằng KTTN không chỉ là một thành phần của nền kinh tế, mà còn là động lực hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới sáng tạo. Hiện nay, khu vực này đóng góp khoảng 51% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước và tạo ra hơn 40 triệu việc làm, cho thấy vai trò không thể thay thế. Đặc biệt, bài viết đề ra tầm nhìn chiến lược đến năm 2030, khi KTTN dự kiến đóng góp 70% GDP, với nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh toàn cầu, làm chủ công nghệ và hội nhập sâu vào chuỗi giá trị quốc tế.

5-1743146915.jpg

Hiện khu vực kinh tế tư nhân đang tạo ra khoảng 51% GDP của nền kinh tế, đóng góp khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút 85% lực lượng lao động, là động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế

Một trong những điểm nhấn quan trọng trong bài viết là định hướng phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu, tạo ra những "người khổng lồ" kinh tế có khả năng dẫn dắt sự phát triển của đất nước. Đây chính là chiến lược mà các nước Đông Bắc Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đã thực hiện thành công.

Định hướng của Việt Nam trong bài viết của Tổng Bí thư cho thấy một chiến lược tương tự, nhằm xây dựng các tập đoàn kinh tế tư nhân hùng mạnh, gia tăng ảnh hưởng trên thị trường khu vực và toàn cầu.

Cùng với việc phát triển các tập đoàn lớn, bài viết cũng nhấn mạnh vào đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo (AI), blockchain, dữ liệu lớn (Big Data) và thương mại điện tử. Đây là những trụ cột của nền kinh tế số, giúp tăng năng suất lao động và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Bên cạnh việc thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh và đổi mới sáng tạo, bài viết cũng nhấn mạnh cải cách hành chính mạnh mẽ, đơn giản hóa thủ tục và xây dựng nền hành chính phục vụ doanh nghiệp. Đây là yếu tố then chốt trong mô hình nhà nước kiến tạo phát triển, khi một bộ máy hành chính hiệu quả sẽ giúp giảm chi phí giao dịch, nâng cao niềm tin của doanh nghiệp và tạo động lực cho khu vực tư nhân phát triển.

6-1743146915.png

Ảnh minh họa

Việt Nam cần đột phá về thể chế để phát triển kinh tế tư nhân

Trong bài viết: Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng, Tổng Bí thư đã đưa ra 7 nhóm giải pháp nhằm định hướng, hỗ trợ và khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân, doanh nghiệp dân tộc, tạo động lực đột phá, mở ra kỷ nguyên vươn mình của kinh tế tư nhân. Tổng Bí thư đã định hướng về quan điểm, nguyên tắc quản lý và vận hành nền kinh tế nước ta trong kỷ nguyên mới với những nội dung quan trọng:

Một là, tạo dựng nền kinh tế thị trường đầy đủ, vận hành theo nguyên tắc, tín hiệu thị trường. Đây là điều kiện cần, điều kiện tiên quyết tạo sự công bằng giữa kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế khác; giải phóng và sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước cho phát triển; tạo cơ hội để kinh tế tư nhân tiếp cận và sử dụng hiệu quả vốn tín dụng, đất đai, khoa học công nghệ, lao động chất lượng. Loại bỏ tư tưởng "trọng công hơn tư" và sự "độc quyền" của doanh nghiệp nhà nước trong một số lĩnh vực.

Thực hiện quan điểm này, Nhà nước cần quản lý theo nguyên tắc thị trường, sử dụng các công cụ thị trường để điều tiết nền kinh tế; phân định rạch ròi vai trò của nhà nước, giảm thiểu sự can thiệp, mệnh lệnh và xóa bỏ các rào cản hành chính, cơ chế xin – cho.

Hai là, nhà nước bảo đảm tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được bảo hộ, không bị quốc hữu hóa. Một khi nhà nước cam kết bảo vệ hữu hiệu quyền tài sản, quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh và bảo đảm thực thi hợp đồng của doanh nghiệp tư nhân, cam kết này sẽ tạo dựng niềm tin, khơi dậy và cổ vũ ý chí tự lực, tự cường, tinh thần cống hiến cho dân tộc của đội ngũ doanh nhân Việt Nam. Đây chính là sức mạnh nội lực quan trọng để đội ngũ doanh nhân nâng cao năng suất, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 diễn ra nhanh, mạnh, quyết định sự thành công hay thất bại trong phát triển đất nước.

Ba là, đổi mới tư duy, đột phá trong cải cách thể chế, kiến tạo, vận hành nhà nước quản trị quốc gia hiệu lực, hiệu quả, phục vụ doanh nghiệp, phụng sự đất nước, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Thể chế hiện là điểm nghẽn của điểm nghẽn. Lúc này nếu không đổi mới tư duy, đột phá về cơ chế, chính sách, kinh tế tư nhân khó có thể vượt qua khó khăn, ổn định và phát triển. Vì vậy, Tổng Bí thư đã chỉ đạo: "Cần quyết liệt cải cách thể chế trên nền tảng đổi mới tư duy trong cải cách mạnh mẽ nền hành chính hướng đến phục vụ người dân, doanh nghiệp".

Để thể chế, chính sách sát với thực tiễn, có tính khả thi, Chính phủ cần thiết lập cơ chế đối thoại, phản biện chính sách hiệu quả, tạo điều kiện để cộng đồng doanh nghiệp tư nhân tham gia góp ý vào quá trình xây dựng pháp luật và hoạch định chính sách kinh tế.

Bốn là, củng cố, tạo dựng, phát triển doanh nghiệp dân tộc tầm cỡ khu vực và thế giới làm đòn bẩy và đầu kéo kinh tế cho một Việt Nam thịnh vượng.

Một trong những giải pháp quan trọng để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đó là tạo dựng, nuôi dưỡng và phát triển các doanh nghiệp dân tộc. Giải pháp này đã được Tổng Bí thư chỉ rõ: "Hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, mạnh, có năng lực cạnh tranh quốc tế, có sứ mệnh dẫn dắt, hỗ trợ trở lại các doanh nghiệp nội địa khác cùng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu".

Để kinh tế tư nhân, doanh nghiệp dân tộc trở thành đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng, thiết nghĩ Đảng và Nhà nước cần phân định rõ vai trò của Nhà nước là pháp luật hóa chủ trương chính sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo nền tảng khơi dậy và thúc đẩy kinh tế tư nhân có bước chuyển đột phá, phát triển nhanh, bền vững.

7-1743146907.jpg

Ảnh minh họa

Chính phủ cần khẩn trương, đi trước trong cải cách thể chế, rà soát sửa đổi, minh bạch môi trường pháp lý. Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật tạo niềm tin, động lực và sự năng động của kinh tế tư nhân.

Đột phá về thể chế phải bắt đầu từ đột phá trong tư duy điều hành kinh tế, chấp nhận sự thay đổi, khác biệt, táo bạo. Đồng thời, cần xây dựng một xã hội cởi mở, chào đón sự thay đổi, chuẩn bị kỹ cho những gì sẽ diễn ra trong thời gian tới.

PGS.TS. Trần Đình Thiên cho rằng, hiện tại là thời điểm mang tính quyết định. Vai trò của Nhà nước cần theo hướng mở đường, dẫn dắt và quan trọng nhất là xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi để DN tư nhân phát triển. Theo đó, cần xây dựng một hệ thống thể chế mới. Luật Lao động hiện nay chủ yếu điều chỉnh lao động chân tay, nhưng lần này cần bổ sung, điều chỉnh thêm để phù hợp với bối cảnh mới. Các luật, như Luật Khoa học và công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ… cũng cần được sửa đổi để tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho DN tư nhân phát triển, để DN tư nhân có thể tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và sáng tạo.

Chính phủ cần thực thi các chính sách tài khóa và tiền tệ ưu đãi, hỗ trợ vốn, công nghệ và lao động có kỹ năng, tay nghề, phù hợp cho kinh tế tư nhân tiến hành sản xuất kinh doanh trong những ngành và lĩnh vực mới.

- Về chính sách thuế.: Ưu đãi về thuế TNDN là công cụ luôn được các quốc gia ưu tiên lựa chọn để thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân. Phần lớn các quốc gia có xu hướng điều chỉnh giảm thuế suất phổ thông thuế TNDN, tuy nhiên trong những năm vừa qua Việt Nam cũng đã nỗ lực cải cách thuế TNDN theo hướng trên và hiện tại mức thuế suất thuế TNDN phổ thông (20%) cũng khá thấp so với nhiều nước trong khu vực nên việc tiếp tục giảm mức thuế suất phổ thông không còn là biện pháp hiệu quả nhất trong thời điểm hiện nay. Tuy nhiên, chính phủ nhiều nước trên thế giới đã thực hiện giảm thuế suất thuế TNDN cho một số đối tượng doanh nghiệp đặc thù (các DNNVV, DNKN, doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực đặc thù) thấp hơn mức thuế suất phổ thông. Ở Việt Nam, kiến nghị áp dụng mức thuế suất thuế TNDN trong khoảng 15% đối với DNNVV, DNKN nhằm phù hợp với thực tế cũng như kinh nghiệm của các nước và cũng không mâu thuẫn với Luật Hỗ trợ DNNVV của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần xem xét và quy định rõ những DNNVV thỏa mãn điều kiện cụ thể nào thì được hưởng chính sách miễn giảm thuế nói trên. Ngoài các DNNVV, các DNKN, nhiều quốc gia trên thế giới cũng miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ nhằm thúc đẩy các sản phẩm mới, nâng cao năng suất lao động. Do đó, Việt Nam cũng nên rà soát, nghiên cứu các chính sách ưu đãi thuế theo hướng khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn như lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực khoa học và công nghệ.

Ngoài thuế TNDN, một số loại thuế khác cũng được các quốc gia miễn giảm để khuyến khích, hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân, chẳng hạn như thuế xuất khẩu, nhập khẩu, thuế GTGT. Do đó, Việt Nam cần rà soát lại các ưu đãi thuế dành cho DNNVV - loại doanh nghiệp chiếm đại bộ phận trong các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế này.

- Về chính sách tín dụng: Ở Việt Nam, vấn đề tiếp cận vốn, đặc biệt nguồn vốn tín dụng ngân hàng thương mại của khu vực kinh tế tư nhân càng khó khăn hơn, do quy mô của đại bộ phận các đơn vị kinh tế thuộc khu vực này đều thuộc mức siêu nhỏ, không những thiếu tài sản đảm bảo mà năng lực xây dựng các kế hoạch kinh doanh, kế hoạch tài chính rất hạn chế. Bởi thế, các cơ chế bảo lãnh tín dụng cần được Nhà nước xây dựng và thực hiện một cách hiệu quả để hỗ trợ các đơn vị kinh tế này. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần hỗ trợ thêm cho họ về thủ tục vay vốn, về hoạt động xây dựng kế hoạch/chiến lược tài chính/kinh doanh. Việt Nam cũng đã hình thành một số quỹ để cấp tín dụng cho các DNNVV, hoặc các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đặc thù như Quỹ phát triển DNNVV, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia,...

- Về chính sách hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước.: Trên thực tế Việt Nam cũng đã thực hiện việc trợ giá cho một số mặt hàng (nổi bật là nông sản) trong một số điều kiện nhất định để đảm bảo ổn định thu nhập cho người sản xuất. Đồng thời, Nhà nước cũng đã dành một khoản ngân sách để chi hỗ trợ các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân nói riêng trong việc nâng cao năng lực quản lý và năng lực công nghệ, cũng như việc tiếp cận thị trường,... Tuy nhiên, trên thực tế không phải doanh nghiệp và nông hộ nào cũng tiếp cận được với những hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, việc xây dựng các chính sách hỗ trợ trực tiếp để hướng các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần phát triển, điển hình như sản xuất nông nghiệp công nghệ cao còn nhiều bất cập, do đó chưa thực sự tạo động lực cho các doanh nghiệp. Vì vậy, Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm này từ các quốc gia như Đức, Mỹ, Malaysia. Trong đó, mô hình hợp tác công - tư trong đầu tư vào các doanh nghiệp như ở Mỹ, tập trung ngân sách hỗ trợ trực tiếp cho nông nghiệp công nghệ cao,... là những mô hình mà Việt Nam cần thực hiện để sử dụng nguồn ngân sách có hiệu quả hơn.

- Về các cơ chế, chính sách để kết nối khu vực kinh tế tư nhân với chiến lược phát triển quốc gia; các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân với nhau; khu vực kinh tế tư nhân với khu vực nhà nước và với khu vực FDI.

Cần xây dựng hệ sinh thái liên kết ba nhà: doanh nghiệp tư nhân - Nhà nước – FDI để doanh nghiệp “không tự bơi mà bơi theo đàn” thông qua việc: (i) Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, trong đó có sự kết nối doanh nghiệp tư nhân, FDI với các trung tâm R&D, trường đại học, viện nghiên cứu, quỹ đầu tư mạo hiểm. Tạo nền tảng hợp tác phát triển sản phẩm, công nghệ mới, thúc đẩy chuyển đổi số, công nghệ xanh; (ii) Xây dựng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu đổi mới sáng tạo tích hợp: mô hình như Silicon Valley Việt Nam, khu công nghiệp - công nghệ cao - đô thị thông minh gắn kết giữa doanh nghiệp lớn, vừa, nhỏ, FDI, khởi nghiệp. Kết nối giữa nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, đầu tư và quản trị chính sách; (iii) Có chính sách thúc đẩy “nội địa hóa” thông qua liên kết giữa FDI và doanh nghiệp nội địa: áp dụng tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc trong một số lĩnh vực chiến lược (ô tô, điện tử, công nghệ cao). Hỗ trợ doanh nghiệp nội địa nâng cao năng lực để đáp ứng tiêu chuẩn tham gia vào chuỗi cung ứng FDI…

Để kết nối giữa các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân, cần: (i) Khuyến khích phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động các hiệp hội ngành nghề, câu lạc bộ doanh nghiệp; xây dựng các mạng lưới, nền tảng số để doanh nghiệp dễ dàng kết nối, chia sẻ thông tin, tìm kiếm đối tác, liên kết chuỗi cung ứng;  (ii) Xây dựng các chuỗi liên kết doanh nghiệp theo cụm ngành, chuỗi giá trị: khuyến khích các doanh nghiệp lớn dẫn dắt chuỗi cung ứng nội địa, kết nối với các doanh nghiệp vừa, nhỏ và hộ kinh doanh cá thể. Hỗ trợ phát triển các cụm liên kết ngành trong các lĩnh vực như: công nghiệp hỗ trợ, chế biến nông sản, công nghệ thông tin, công nghiệp sáng tạo. Tổ chức các diễn đàn, hội chợ, hội thảo doanh nghiệp…

Để kết nối giữa khu vực kinh tế tư nhân và khu vực nhà nước, cần: (i) Thiết lập các kênh đối thoại trực tiếp giữa doanh nghiệp tư nhân và Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương. Xây dựng cơ chế phản hồi nhanh để giải quyết kịp thời các vướng mắc, kiến nghị của doanh nghiệp; (ii) Thúc đẩy hợp tác công - tư (PPP) trong đầu tư phát triển hạ tầng, dịch vụ công như khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các dự án lớn như hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục, môi trường...(iii) Ưu tiên doanh nghiệp tư nhân nội địa trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội như các dự án đầu tư công, chương trình chuyển đổi số quốc gia, chương trình đổi mới công nghệ... (iv) Hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các quỹ hỗ trợ phát triển quốc gia (Quỹ đổi mới công nghệ, Quỹ phát triển DNNVV, Quỹ bảo lãnh tín dụng...)…

Để kết nối khu vực kinh tế tư nhân và khu vực FDI, cần: (i) Xây dựng các chương trình liên kết chuỗi cung ứng giữa FDI và doanh nghiệp nội địa, đặc biệt trong các ngành công nghiệp hỗ trợ, chế tạo, công nghệ cao. Khuyến khích các doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, hỗ trợ nâng cao năng lực cho doanh nghiệp Việt Nam; (ii) Xây dựng Trung tâm liên kết, tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp nội địa tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, trung tâm xúc tiến công nghiệp hỗ trợ, trung tâm liên kết doanh nghiệp FDI - nội địa tại các khu công nghiệp, khu kinh tế trọng điểm. Tổ chức các buổi gặp gỡ, kết nối doanh nghiệp để doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận các tập đoàn lớn; (iii) Xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư cho FDI có cam kết liên kết, chuyển giao công nghệ, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam. Yêu cầu các dự án FDI lớn có kế hoạch phát triển chuỗi cung ứng nội địa ngay từ giai đoạn phê duyệt dự án…

TS. Nguyễn Quốc Việt chuyên gia chính sách công nhấn mạnh, trọng tâm của chính sách phát triển kinh tế tư nhân là Nhà nước cần chọn lọc các lĩnh vực và công trình ưu tiên phát triển theo từng giai đoạn, phù hợp với khả năng huy động và phân bổ nguồn lực. Việc đặt hàng cho DN thực hiện các dự án trọng điểm phải được thực hiện trên cơ sở các tiêu chí lựa chọn rõ ràng, công khai và có giới hạn phạm vi cụ thể.

Nhà nước cần rà soát, điều chỉnh và đồng bộ hóa các luật liên quan, đặc biệt là Luật Đầu tư công, Luật Hợp tác công-tư và Luật Đấu thầu, nhằm tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng và nhất quán cho DN tư nhân phát triển.

Bên cạnh đó, cần ban hành các chính sách ưu đãi cụ thể cho DN được đặt hàng, như ưu đãi về tiếp cận nguồn lực, bao gồm vốn, đất đai, lao động; chính sách ưu đãi về thuế; đồng thời đơn giản hóa các thủ tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi cho DN trong quá trình triển khai các dự án.

"Sự quyết tâm chính trị của lãnh đạo cấp cao đã rất rõ ràng. Tuy nhiên, để các chính sách này đi vào thực tiễn, cần có các mô hình sáng tạo mang tính chất đột phá từ cấp địa phương, thậm chí sẵn sàng 'xé rào' trong khuôn khổ pháp luật để xây dựng các cơ chế thí điểm cho doanh nghiệp tư nhân", TS. Nguyễn Quốc Việt nhấn mạnh.

Lê Phúc - Minh Anh

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin