1. Những qui định pháp luật hiện hành về hoạt động đầu tư ra nước ngoài, nhà đầu tư cần biết
1.1. Về hình thức đầu tư ra nước ngoài năm 2023
Theo Điều 52 Luật Đầu tư 2020, các hình thức đầu tư ra nước ngoài mà nhà đầu tư có thể lựa chọn bao gồm: Thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư; Đầu tư theo hình thức hợp đồng ở nước ngoài; Góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế ở nước ngoài để tham gia quản lý tổ chức kinh tế đó; Mua, bán chứng khoán, giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài; Các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
1.2. Về việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư
Theo Điều 66 Luật Đầu tư 2020, nhà đầu tư được chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư khi đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài, trừ trường hợp nhà đầu tư được chuyển ngoại tệ hoặc hàng hóa, máy móc, thiết bị ra nước ngoài để phục vụ cho hoạt động khảo sát, nghiên cứu, thăm dò thị trường và thực hiện hoạt động chuẩn bị đầu tư khác theo quy định của Chính phủ.
- Hoạt động đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận hoặc cấp phép. Trường hợp pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư không quy định về việc cấp phép đầu tư hoặc chấp thuận đầu tư, nhà đầu tư phải có tài liệu chứng minh quyền hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư.
- Có tài khoản vốn đầu tư ra nước ngoài. Cụ thể, nhà đầu tư mở tài khoản vốn đầu tư ra nước ngoài tại một tổ chức tín dụng được phép tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
Mọi giao dịch chuyển tiền từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài về Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài phải thực hiện thông qua tài khoản vốn đầu tư nêu trên theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
1.3. Về việc chuyển lợi nhuận về nước
Theo Điều 68 Luật Đầu tư 2020 quy định về việc chuyển lợi nhuận về nước như sau: Trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư (sau đây gọi tắt là báo cáo quyết toán thuế), nhà đầu tư phải chuyển toàn bộ lợi nhuận thu được và các khoản thu nhập khác từ đầu tư ở nước ngoài về Việt Nam. Trừ trường hợp giữ lại lợi nhuận ở nước ngoài để tái đầu tư theo Điều 67 Luật Đầu tư 2020.
Trong thời hạn nêu trên mà nhà đầu tư không chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập khác về Việt Nam thì nhà đầu tư thực hiện như sau: Nhà đầu tư thông báo trước bằng văn bản cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (thông báo thực hiện trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế); Sau khi thông báo, nhà đầu tư được kéo dài thời hạn chuyển lợi nhuận về Việt Nam nhưng không quá 12 tháng kể từ ngày hết thời hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế.
Trường hợp nhà đầu tư không thực hiện các quy định nêu trên, thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 9 tháng năm 2024 [1] có 105 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn là 177,5 triệu USD, giảm 27,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (bao gồm cả vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 189,6 triệu USD, giảm 54,5% so với cùng kỳ năm trước.
Về lĩnh vực đầu tư, các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài ở 15 ngành; trong đó, vốn đầu tư tập trung nhiều nhất vào các ngành khai khoáng với 58,6 triệu USD, chiếm 30,9% tổng vốn đầu tư. Công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 34,7 triệu USD, chiếm 18,3%.
Về lãnh thổ đầu tư, 9 tháng năm 2024, có 27 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam; trong đó, Hà Lan là nước dẫn đầu với 54,6 triệu USD, chiếm 28,8% tổng vốn đầu tư. Lào nhận khoản đầu tư 43,5 triệu USD, chiếm 22,9%. Các quốc gia nhận vốn đầu tư tiếp theo lần lượt là: Hoa Kỳ với 41,8 triệu USD, chiếm 22% tổng vốn đầu tư; Campuchia với 21,8 triệu USD, chiếm 11,5%; Vương quốc Anh với 20,4 triệu USD, chiếm 10,7%; Indonesia với 6,3 triệu USD, chiếm 3,3%...
Hai địa bàn nhận đầu tư của Việt Nam nhiều nhất lần lượt là 2 quốc gia thuộc khu vực ASEAN, trong đó Lào nhận 24,9% tổng vốn đầu tư và Campuchia nhận 13,3% tổng vốn đầu tư.
2. Một số bất cập trong chính sách pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Thứ nhất, về chủ thể có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài (GCNĐKĐTRNN)
Điều 61 Luật Đầu tư 2020 quy định về thủ tục cấp GCNĐKĐTRNN xác định cơ quan duy nhất cấp GCN là thuộc thẩm quyền của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Cụ thể là Cục đầu tư nước ngoài) cho tất cả các dự án đầu tư mà không phụ thuộc vào quy mô hay nhà đầu tư. Trong khi đó, nếu so sánh với thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thì có thể thấy rõ sự khác biệt và “thiệt thòi” đối với việc cấp GCNĐKĐTRNN. Theo đó có 04 chủ thể có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đầu tư tại Việt Nam cho các nhà đầu tư nước ngoài gồm Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Ban quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất, khu công nghệ cao. Như vậy, trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài đang tăng mạnh, song với việc chỉ có một cơ quan cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài đã dẫn đến những hạn chế nhất định đối với các nhà đầu tư về khoảng cách địa lý, tốn nhiều thời gian, mất nhiều chi phí đi lại, chuẩn bị hồ sơ trong quá trình xin cấp giấy phép…. Mặt khác Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ bị quá tải do phải xem xét tất cả các dự án, nhà đầu tư từ quy mô nhỏ đến lớn từ đó có thể gây ra tình trạng ùn ứ, kéo theo thời gian cấp giấy phép, xử lý hồ sơ sẽ bị kéo dài hơn.
Ảnh minh họa
Thứ hai, về trình tự thủ tục cấp GCNĐKĐTRNN
Điều 76 Nghị định 31/2021/NĐ-CP quy định về trình tự, thủ tục cấp GCNĐKĐTRNN thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài xác định trình tự, thủ tục xin cấp GCNĐKĐTRNN đối với dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng có thời gian ít nhất 63 ngày, chưa kể thời gian 15 ngày xin ý kiến của các cơ quan như Ngân Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ quản lý ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi nhà đầu tư đặt trụ sở chính hoặc đăng ký thường trú. Đối với các dự án thuộc diện Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, căn cứ Điều 57, 61 Luật Đầu tư 2020 quy định trình tự, thủ tục cấp GCNĐKĐTRNN có thời gian đến 160 ngày.
Trong khi đó, ở Trung Quốc đã rút ngắn tối đa thời gian thực hiện thủ tục đối với các dự án đầu tư ra nước ngoài, khi so sánh với Việt Nam thì có thể thấy trình tự, thủ tục của Việt Nam còn rất rườm rà, cụ thể [2]: Cơ quan có thẩm quyền ở trung ương và địa phương theo phân cấp phải cấp giấy phép đầu tư cho các dự án chậm nhất là 15 ngày làm việc kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ. Trường hợp không được cấp phép cũng phải phản hồi thông tin cho doanh nghiệp. Các dự án đầu tư thông thường có vốn dưới 10 triệu USD thì chỉ cần đăng ký và gửi hồ sơ qua cổng thông tin điện tử của Sở Thương mại các tỉnh, thành phố (đối với doanh nghiệp địa phương) hoặc Bộ Thương mại (đối với tập đoàn kinh tế nhà nước). Đối với hình thức này, thời gian cấp giấy phép đầu tư không quá 3 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ đăng ký điện tử.
Thứ ba, về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư
Luật Đầu tư 2005 đã có quy định về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư ra nước ngoài được quy định cụ thể tại Điều 77, 78. Tuy nhiên Luật Đầu tư 2014 và đến Luật Đầu tư 2020 và Nghị định 31/2021/NĐ-CP lại không có điều khoản quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư thực hiện ĐTRNN mà hiện chỉ mới quy định chung chung, tản mát tại từng điều khoản khác nhau như tại Điều 5 Luật Đầu tư 2020. Hơn nữa các quy định này chưa vạch rõ ranh giới về quyền và nghĩa vụ giữa Nhà đầu tư trong nước và Nhà đầu tư ra nước ngoài. Mặt khác, tại khoản 6 Điều 62 Luật Đầu tư quy định về nội dung GCNĐKĐTRNN lại yêu cầu thể hiện quyền và nghĩa vụ của Nhà đầu tư, tuy nhiên trên thực tế các nội dung về quyền và nghĩa vụ được ghi nhận này vẫn là các quy định chung trong Luật Đầu tư và văn bản hướng dẫn thi hành mà chưa có quy định cụ thể trực tiếp hay về những chính sách ưu đãi được hưởng.
Thứ tư, về vấn đề chuyển dịch vốn, ngoại tệ ra nước ngoài
Khoản 4 Điều 82 Nghị định 31/2021/NĐ-CP quy định về hạn mức chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi được cấp GCNĐKĐTRNN để đáp ứng các chi phí cho hoạt động hình thành dự án đầu tư , theo đó không vượt quá 5% tổng vốn đầu tư ra ngước ngoài và không quá 300.000 đô la Mỹ. Quy định này hiện không còn phù hợp với thực tế, đặc biệt đang dần trở thành rào cản đối với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Cần nhận thức rằng, đầu tư ra nước ngoài không chỉ yêu cầu một nguồn vốn lớn mà còn cần một sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nhiều mặt. Đây là quá trình đòi hỏi nhà đầu tư phải tính toán và triển khai nhiều công đoạn, bao gồm khảo sát thị trường, lập kế hoạch dự án, thương thảo hợp đồng, xin cấp phép và các thủ tục pháp lý khác. Tất cả các công đoạn này đều cần có sự tham gia của nguồn vốn chuẩn bị từ trước. Hơn nữa, yêu cầu chuyển ngoại tệ cho các chi phí chuẩn bị này không phải lúc nào cũng có thể chỉ gói gọn trong mức giới hạn 5% tổng vốn đầu tư hay 300.000 đô la Mỹ. Trong khi đó, các nhà đầu tư cần có khả năng linh hoạt về nguồn vốn để đảm bảo sự sẵn sàng và hiệu quả của dự án khi tiến hành đầu tư tại các thị trường nước ngoài.
Không chỉ có vậy, quy định trên còn tác động đến uy tín và năng lực tài chính của nhà đầu tư. Trong môi trường kinh doanh quốc tế, khả năng huy động và chuyển dịch vốn linh hoạt là một yếu tố quyết định trong việc xây dựng lòng tin với các đối tác và cơ quan quản lý ở nước sở tại. Việc hạn chế mức chuyển ngoại tệ có thể khiến nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc đảm bảo tiến độ và quy mô của dự án, ảnh hưởng không chỉ đến hiệu quả kinh doanh mà còn đến sự ổn định tài chính và danh tiếng của họ trên thị trường quốc tế.
Tập đoàn sữa TH đang đầu tư ra nước ngoài khá lớn. Ảnh minh họa: TH
Thứ năm, về chính sách ưu đãi, cơ chế hỗ trợ đặc thù của nhà nước
Hiện nay, các nhà đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam vẫn đang gặp nhiều khó khăn do thiếu vắng các chính sách ưu đãi và cơ chế đặc thù để hỗ trợ, khuyến khích việc đầu tư quốc tế. Các chính sách hiện hành chưa đủ mạnh mẽ để tạo động lực cho các nhà đầu tư Việt Nam tham gia vào các dự án đầu tư ở nước ngoài, khiến họ khó có thể tận dụng được các cơ hội đầu tư quốc tế. Việc thiếu những chính sách khuyến khích cụ thể như ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính, hay các biện pháp giảm thiểu rủi ro đầu tư hay cơ chế bảo vệ quyền lợi đã khiến cho nhà đầu tư Việt Nam ít có động lực để mở rộng hoạt động tại các thị trường nước ngoài.
Khi so sánh với Nhật Bản – một quốc gia có sự phát triển mạnh mẽ trong đầu tư ra nước ngoài, có thể nhận thấy rõ sự quan trọng và ảnh hưởng của các chính sách từ phía Nhà nước. Nhật Bản đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ cho các nhà đầu tư ra nước ngoài, chẳng hạn như: việc tạo ra các công cụ hỗ trợ nhà đầu tư qua hoạt động xúc tiến thị trường thông qua Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO); cung cấp hỗ trợ tài chính cho các dự án đầu tư qua Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC); hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng tại các quốc gia tiếp nhận đầu tư qua nguồn viện trợ ODA của Chính phủ Nhật Bản; và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư thông qua các hiệp định song phương, đa phương và mối quan hệ cấp chính phủ đã ký kết với các quốc gia trên toàn cầu. [3]
Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước Việt Nam và các cơ quan của các nước tiếp nhận đầu tư cũng chưa thực sự đồng bộ, dẫn đến việc thực thi các chính sách không đạt được hiệu quả như mong đợi. Việc phối hợp trong xây dựng chính sách và các chương trình hành động chung nhằm thúc đẩy đầu tư, thương mại và du lịch giữa VN và các nước còn chậm, chưa cụ thể và thiếu sự liên kết chặt chẽ trong việc triển khai đã gây khó khăn trong việc thực hiện đúng tiến độ dự án, làm giảm hiệu quả của các khoản đầu tư ra nước ngoài.
Thứ sáu, về cơ chế quản lý, giám sát
Thực tiễn cho thấy nhiều nhà đầu tư chưa thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo dẫn đến tình trạng các Bộ, ngành, địa phương thiếu thông tin đầy đủ để thực hiện công tác quản lý và hỗ trợ nhà đầu tư. Điều này không chỉ làm suy giảm chất lượng công tác giám sát mà còn khiến các cơ quan nhà nước gặp khó khăn trong việc nắm bắt tình hình triển khai dự án, khó tiếp cận và theo dõi trực tiếp bởi các dự án đầu tư đều được thực hiện ở nước ngoài.
Mặc dù, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài đã được ban hành tại Mục 3 Chương II Nghị định 122/2021/NĐ-CP quy định về quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư. Tuy nhiên thực tiễn rất hiếm các nhà đầu tư bị xử lý hay xử phạt đối với các hành vi vi phạm chế độ báo cáo về tình hình triển khai dự án. Các nhà đầu tư thường chỉ thực hiện báo cáo khi có nhu cầu điều chỉnh hoặc thay đổi các nội dung đầu tư thuộc dự án, hoặc khi đến hạn chuyển tiền đầu tư về nước. Thêm vào đó là tình trạng báo cáo có tính chất đối phó của các nhà đầu tư. Những vấn đề này không chỉ dẫn đến việc các báo cáo không phản ánh đầy đủ và chính xác tình hình thực tế của các dự án, gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước trong việc đánh giá hiệu quả và hỗ trợ các nhà đầu tư mà tạo điều kiện cho những hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là đối với các quy định pháp lý của nước tiếp nhận đầu tư, mà không bị phát hiện hoặc xử lý kịp thời.
Ngoài ra, hiện nay, ngoài cơ chế báo cáo, các cơ quan nhà nước cũng chưa có cơ chế thực hiện kiểm tra, khảo sát tại chỗ để đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Các biện pháp kiểm tra tại chỗ có thể cung cấp cái nhìn rõ ràng hơn về tình hình thực tế của dự án, giúp các cơ quan quản lý không chỉ nắm bắt được tiến độ mà còn đánh giá được các yếu tố tác động đến hiệu quả đầu tư, như tình hình thị trường, môi trường pháp lý và các yếu tố bên ngoài khác. Tuy nhiên, thiếu các cơ chế này khiến công tác giám sát trở nên mờ nhạt, không phản ánh đúng tình hình thực tế, từ đó không thể hỗ trợ kịp thời hoặc can thiệp vào các dự án đầu tư nước ngoài khi cần thiết.
Kinh nghiệm từ Hàn Quốc cho thấy, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện một chính sách quản lý đầu tư ra nước ngoài với phương châm hạn chế tối đa sự can thiệp hành chính trực tiếp. Thay vì quản lý chi tiết từng hoạt động đầu tư, Chính phủ Hàn Quốc tập trung vào việc tạo ra một khung pháp lý và định hướng chung, đồng thời giảm thiểu các rào cản hành chính để doanh nghiệp có thể tự do thực hiện các hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Đặc biệt, một số chức năng quản lý nhà nước liên quan đến đầu tư ra nước ngoài được ủy thác cho các tổ chức trung gian, điển hình là Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hàn Quốc (Korea Eximbank). Ngân hàng này không chỉ có vai trò cung cấp tài chính cho các dự án đầu tư mà còn chịu trách nhiệm tổng hợp và theo dõi tình hình các dự án đầu tư ra nước ngoài, đồng thời báo cáo định kỳ về các hoạt động đầu tư dự án tới các cơ quan có thẩm quyền. Điều này giúp giảm bớt gánh nặng hành chính cho Chính phủ, đồng thời đảm bảo rằng các dự án đầu tư ra nước ngoài vẫn tuân thủ các quy định pháp luật và đạt hiệu quả cao. Chính sách đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc chủ yếu mang tính định hướng, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm cơ hội đầu tư, đồng thời cung cấp các công cụ tài chính và hỗ trợ pháp lý, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường nước ngoài một cách hiệu quả và bền vững. [4]
3. Một số giải pháp hoàn thiện quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Thứ nhất, về thẩm quyền và thủ tục xin cấp giấy phép cấp GCNĐKĐTRNN
Mặc dù lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài đã có Hệ thống thông tin quốc gia để hỗ trợ thực hiện các thủ tục, tuy nhiên khi xin cấp GCNĐKĐTRNN thì các nhà đầu tư vẫn được yêu cầu cầu phải nộp hồ sơ trực tiếp dựa trên quy mô, tính chất của dự án, cụ thể: Căn cứ Điều 80 Nghị định 31/2021/NĐ-CP quy định: Đối với dự án có vốn đầu tư ra nước ngoài dưới 20 tỷ đồng và không thuộc ngành, nghề đầu tư ra nước ngoài có điều kiện, nhà đầu tư được lựa chọn nộp hồ sơ bản giấy hoặc nộp hồ sơ trực tuyến trên Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư. Như vậy, đối với dự án đầu tư ra nước ngoài có vốn từ 20 tỷ đồng trở lên sẽ phải nộp hồ sơ trực tiếp.
Do đó, để hạn chế những khó khăn, bất cập về việc thẩm quyền giải quyết hồ sơ và cấp GCNĐKĐTRNN thì có thể học tập kinh nghiệm từ Trung Quốc khi xây dựng cơ chế cho UBND cấp tỉnh có thẩm quyền cấp GCNĐKĐTRNN đối với các dự án có quy mô vốn nhỏ dưới 20 tỷ đồng. Điều này vừa giảm thiểu khó khăn cho các nhà đầu tư vừa và nhỏ vừa giúp thủ tục được thông thoáng, hạn chế tắc nghẽn, quá tải cho cơ quan trung ương.
Đồng thời, như đã phân tích nêu trên đối với các dự án quan trọng, có quy mô lớn thì thời gian xin chấp thuận chủ trương đầu tư và cấp GCNĐKĐTRNN có thể kéo dài từ 2 tháng đến hơn 4 tháng. Trong khi đó các dự án này đều là các dự án quan trọng đối với các nhà đầu tư nên cần thực hiện đầu tư nhanh chóng để tránh mất cơ hội. Do vậy, tiếp thu kinh nghiệm từ các quốc gia có thế mạnh đầu tư ra nước ngoài như Trung Quốc thì chúng ta cần tiếp tục cải cách, thu gọn trình tự thủ tục phê duyệt, cấp phép cho các dự án đầu tư ra nước ngoài xuống khoảng thời gian 01 tháng nhằm tạo lợi thế và tháo gỡ những khó khăn nhất định trong việc đầu tư ra nước ngoài. Về lâu dài, việc xem xét, giải quyết hồ sơ sẽ được chuyển toàn bộ sang thực hiện trực tuyến (online) để vừa đảm bảo tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức, vừa góp phần thực hiện chủ trương chuyển đổi số trong thời đại 4.0 của Chính phủ.
Thứ hai, thống nhất đầy đủ quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư tại văn bản quy phạm pháp luật
Để các nhà đầu tư có thể hiểu rõ và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, việc xây dựng các quy định cụ thể về quyền lợi và trách nhiệm của nhà đầu tư là cần thiết. Quy định rõ ràng không chỉ giúp nhà đầu tư bảo vệ quyền lợi hợp pháp mà còn giúp họ tránh được các rủi ro pháp lý, đồng thời tạo sự minh bạch trong môi trường đầu tư. Việc này cũng sẽ tạo ra sự công bằng và sự tin tưởng đối với các nhà đầu tư, giúp họ yên tâm hơn khi mở rộng hoạt động kinh doanh ra quốc tế.
Thứ ba, nâng hạn mức chuyển ngoại tệ
Cần xem xét nâng mức giới hạn chuyển ngoại tệ, ví dụ như tăng mức giới hạn lên 20%, đồng thời không hạn chế giá trị cụ thể của số vốn chi cho các hoạt động hình thành dự án như ở mức 300.000 đô la Mỹ, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư khi chuẩn bị vốn cho các dự án đầu tư ra nước ngoài. Hiện tại, các quy định tài chính chặt chẽ đang gây khó khăn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là trong quá trình chuyển tiền hoặc chi tiêu cho các hoạt động đầu tư ban đầu. Tháo gỡ được vấn đề này không chỉ giúp đẩy mạnh dòng vốn đầu tư ra nước ngoài mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh của các nhà đầu tư Việt Nam trên thị trường toàn cầu, giúp họ tham gia vào các cơ hội đầu tư lớn hơn và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ở quốc tế.
Ảnh minh họa
Thứ tư, tăng cường chính sách khuyến mãi, ưu đãi với các nhà đầu tư
Việc cải thiện và hoàn thiện các chính sách hỗ trợ, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước Việt Nam và các quốc gia đối tác, cùng với việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan đại diện của Việt Nam tại nước ngoài là những yếu tố quan trọng để thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Chính phủ cần xây dựng một cơ chế đồng bộ, rõ ràng và hiệu quả hơn, không chỉ để giải quyết các vấn đề pháp lý và tài chính, mà còn để tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, giúp các nhà đầu tư Việt Nam phát triển mạnh mẽ và bền vững trên thị trường quốc tế.
Tăng cường chính sách khuyến mãi và ưu đãi với các nhà đầu tư sẽ tạo điều kiện không chỉ giúp các nhà đầu tư có thể đầu tư hiệu quả hơn mà còn giúp thúc đẩy nền kinh tế và các lĩnh vực khác trong nước, cụ thể: Xây dựng chính sách chung về đầu tư ra nước ngoài; Khuyến khích các ngành nghề đặc thù, là thế mạnh để đầu tư ra nước ngoài; Xây dựng các hội nhóm liên kết các nhà đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam nhằm tạo “chất kết dính” gắn kết sức mạnh của các nhà đầu tư đồng thời đây cũng là cơ sở để các nhà đầu tư hỗ trợ, hợp tác, giúp đỡ nhau cùng phát triển; Tạo sự kết nối giữa nhà đầu tư nước ngoài của Việt Nam và nhà đầu tư trong nước (nước tiếp nhận đầu tư và cả Việt Nam) nhằm tăng cường sự hợp tác, liên kết phát triển bền vững, tạo ra các chuỗi liên kết khép kín và bền chặt; Nhà nước phát triển thêm các chính sách tác động về tài chính cho các nhà đầu tư ra nước ngoài như về hỗ trợ vay vốn lãi suất thấp, giảm thuế suất...
Thứ năm, về hoạt động quản lý, giám sát của cơ quan có thẩm quyền
Để nâng cao hiệu quả giám sát và quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài, cần có những cải cách mạnh mẽ trong cơ chế kiểm tra, báo cáo và xử lý vi phạm. Cần xây dựng một hệ thống giám sát chặt chẽ hơn, không chỉ dựa vào báo cáo của các nhà đầu tư mà còn thông qua các cuộc kiểm tra thực tế, khảo sát tại chỗ và đánh giá độc lập để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả của các dự án đầu tư. Các cơ quan có thẩm quyền cần thường xuyên đôn đốc các nhà đầu tư và kịp thời áp dụng ngay các biện pháp chế tài khi các nhà đầu tư có sự vi phạm.
Mặc dù, Chính phủ đã quy định chế tài xử lý vi phạm chế độ báo cáo hoạt động đầu tư ra nước ngoài, tuy nhiên mức xử lý còn khá thấp từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng, mức phạt này chưa đủ tính răn đe. Vì vậy, cần điều chỉnh các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm hơn, như tăng nặng chế tài xử lý nhằm ràng buộc trách nhiệm, đảm bảo sự tuân thủ nghiêm ngặt của các nhà đầu tư và tạo dựng môi trường đầu tư minh bạch, công bằng hơn.
Mặt khác, tương tự như Hàn Quốc, Việt Nam có thể ủy thác một số chức năng quản lý đầu tư ra nước ngoài cho các tổ chức trung gian. Các tổ chức này có thể hỗ trợ doanh nghiệp trong việc triển khai dự án đầu tư và báo cáo các hoạt động đầu tư với Chính phủ. Điều này không chỉ giúp giảm tải công việc cho các cơ quan nhà nước mà còn tăng tính chuyên nghiệp và hiệu quả trong việc giám sát và hỗ trợ doanh nghiệp.
Thứ sáu, tăng cường cơ chế bảo vệ nhà đầu tư, xử lý rủi ro, tranh chấp
Cần xây dựng bảo hiểm về đầu tư ra nước ngoài cho các nhà đầu tư nhằm giảm thiểu các rủi ro tiềm ẩn khi đầu tư vượt ra ngoài biên giới lãnh thổ Việt Nam. Bởi khi “mang chuông đi đánh xứ người” các nhà đầu thư thường phải gặp rất nhiều khó khăn, áp lực và rủi ro có thể kể đến như khó khăn về tài chính, sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp trong nước tiếp nhận đầu tư hay từ chính các nhà đầu tư đến từ các quốc gia khác, tác động của thế chế chính trị, an ninh, kinh tế. Do vậy, bảo hiểm đầu tư ra nước ngoài được coi là “chiếc phao cứu sinh” khi các nhà đầu tư gặp rủi ro, đồng thời giúp các nhà đầu tư an tâm và tự tin phát triển tại các thị trường mới.
Bên cạnh đó, sự hỗ trợ, can thiệp của Chính phủ và cơ quan ngoại giao khi các nhà đầu tư gặp khó khăn hay có tranh chấp cũng là một trong những vấn đề quan trọng bởi các nhà đầu tư, tài sản của nhà đầu tư cũng chính là tài sản, cá nhân, pháp nhân của đất nước. Khi nảy sinh tranh chấp ở môi trường quốc tế thì các nhà đầu tư của Việt Nam thường ở bên yếu thế, do vậy dễ bị các chủ thể khác xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp. Do đó, Nhà nước cũng cần có các chính sách để thực hiện có hiệu quả các cơ chế bảo vệ các nhà đầu tư và tài sản của họ khỏi những ảnh hưởng của rủi ro như tăng cường hợp tác quốc tế và can thiệp dựa trên các nguyên tắc bảo hộ đầu tư cơ bản trong các Điều ước, Hiệp định hợp tác song phương, đa phương như: Nguyên tắc không phân biệt đối xử; và Nguyên tắc đối xử tối thiểu (gồm nguyên tắc bảo hộ an toàn và đầy đủ và nguyên tắc đối xử công bằng và thỏa đáng). Hay Nguyên tắc bảo hộ tuyệt đối và bảo hộ tương đối, nghĩa là sự đối xử của nhà nước chủ nhà với nhà đầu tư của một nước phụ thuộc vào sự đối xử của nhà nước đó đối với nhà đầu tư của nước mình hoặc nước khác (như nguyên tắc không phân biệt đối xử).
Ngoài ra, cần tiếp tục mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế và với các quốc gia khác nhằm mở rộng quan hệ ngoại giao và tham gia các Điều ước quốc tế. Việc mở rộng quan hệ quốc tế là tiền đề để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Các Hiệp ước, điều ước là cơ sở pháp lý cho các nhà đầu tư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đây cũng là những căn cứ quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh hay tạo những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư thực hiện các dự án ở nước ngoài.
Sự kết hợp giữa pháp luật của quốc gia và các quy định quốc tế sẽ có tác động hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài để tạo thành một hệ thống quy định thống nhất nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện, áp dụng pháp luật trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Tóm lại, việc hoàn thiện quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là yếu tố quan trọng để thúc đẩy hoạt động đầu tư quốc tế. Cần có những giải pháp hợp lý vừa hỗ trợ các nhà đầu tư không chỉ trong việc mở rộng đầu tư ra nước ngoài mà còn góp phần nâng cao sức cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước.
--------------------------
Tham khảo:
[1] https://baotintuc.vn/kinh-te/dau-tu-ra-nuoc-ngoai-cua-doanh-nghiep-viet-giam-20241012182141464.htm
[2] Nguyễn Anh Chương, Chính sách đầu tư ra nước ngoài của trung quốc và tác động đối với quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc (2010-2020), Tạp chí khoa học, tập 51 – Số 1B/2022, tr. 5-15; Thạch Quảng Sinh (2018), Nhìn lại quá trình phát triển đầu tư đối ngoại của Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu vấn đề đương đại, kỳ thứ 4(80) (tiếng Trung Quốc).
[3] [4] Vũ Văn Chung, Trưởng phòng Đầu tư ra nước ngoài, Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, “Quản lý vốn đầu tư ra nước ngoài, bài học với Việt Nam”, https://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/quan-ly-von-dau-tu-ra-nuoc-ngoai-kinh-nghiem-tu-nhat-ban-va-han-quoc-20120512092827360.chn.
1. Hoàng Thị Minh Thảo, Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài và thực tiễn thi hành tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
2. Trang thông tin điện tử đầu tư nước ngoài – Cục đầu tư nước ngoài, Xu hướng đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc.