Nhận diện các dạng thức lãng phí trong quản lý công và kiến nghị hoàn thiện thể chế tại Việt Nam

(Pháp lý). Theo Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc về Phát triển bền vững, hiệu quả trong quản trị công được xác định là một trong những mục tiêu cốt lõi để bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy phát triển bao trùm và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên . Từ góc nhìn luật học, điều này đòi hỏi mỗi quốc gia phải không ngừng hoàn thiện hệ thống thể chế pháp luật nhằm kiểm soát chặt chẽ các nguồn lực công, đồng thời phòng ngừa và xử lý nghiêm các hành vi lãng phí, thất thoát và sử dụng tài sản công sai mục đích.
1-1751261512.jpg

Tiết kiệm, sử dụng hiệu quả ngân sách là góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh

Tại Việt Nam, vấn đề tiết kiệm và chống lãng phí không chỉ là yêu cầu mang tính kỹ trị hay quản lý tài chính - ngân sách đơn thuần, mà còn là vấn đề pháp lý và đạo đức công vụ, gắn liền với trách nhiệm chính trị, pháp lý của đội ngũ cán bộ, công chức và toàn hệ thống chính trị.

Bài viết sau, tác giả nghiên cứu nhận diện các dạng thức lãng phí đang tồn tại trong hệ thống quản trị công và phân tích kỹ lưỡng các nguyên nhân pháp lý, thể chế, đồng thời đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật

1. Cơ sở lý luận về tiết kiệm, lãng phí và quản lý công

Tại Việt Nam, cơ sở pháp lý cao nhất về tiết kiệm và chống lãng phí được hiến định tại Điều 56 Hiến pháp năm 2013, theo đó: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải THTK, CLP, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước” . Đây là quy định có tính nguyên tắc và bao trùm, đặt trách nhiệm tiết kiệm và phòng, chống lãng phí không chỉ lên các tổ chức công mà còn đối với cả các cá nhân tham gia vào hoạt động công vụ.

Trên cơ sở đó, Luật THTK, CLP năm 2013 là đạo luật chuyên ngành quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung, hình thức và trách nhiệm thực hành tiết kiệm trong các lĩnh vực như: ngân sách nhà nước, đầu tư công, mua sắm công, quản lý tài sản công, sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và trong sinh hoạt thường ngày của công dân . Luật này cũng đưa ra một số biện pháp tổ chức thực hiện, giám sát và chế tài đối với hành vi vi phạm, song vẫn còn nhiều nội dung mang tính định hướng, chưa đủ mạnh để trở thành rào cản pháp lý hiệu quả chống lại hành vi lãng phí mang tính hệ thống.

Theo Điều 3 Luật THTK, CLP năm 2013, “tiết kiệm” được hiểu là việc giảm chi phí, thời gian, công sức và tài nguyên trong quá trình sử dụng nhằm đạt được mục tiêu đề ra mà không ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả [6]. Ngược lại, “lãng phí” là việc sử dụng tài sản, thời gian, lao động, tài nguyên không đúng mục đích, không hiệu quả, dẫn đến thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân.

Khái niệm “quản lý công” (public management) trong pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có định nghĩa thống nhất trong một văn bản luật, nhưng được hiểu rộng rãi là hoạt động điều hành, tổ chức và sử dụng các nguồn lực công (ngân sách nhà nước, tài sản công, nhân lực công...) của các cơ quan, tổ chức thuộc khu vực nhà nước để thực hiện chức năng công vụ và cung ứng dịch vụ công cho xã hội.

Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật liên quan như: Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 (sửa đổi năm 2024), Luật Đầu tư công năm 2024, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi 2019), Luật Tổ chức Chính phủ 2025 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2025... đều có những quy định liên quan đến trách nhiệm sử dụng hiệu quả ngân sách, tài sản và nguồn lực công. Tuy nhiên, các quy định này phân tán, thiếu liên thông và đôi khi không đủ tính răn đe, dẫn đến tình trạng “pháp luật có nhưng lãng phí vẫn tồn tại”.

Việc hoàn thiện thể chế về tiết kiệm, chống lãng phí do đó cần được đặt trong tổng thể cải cách pháp luật hành chính và tài chính công, gắn với tăng cường trách nhiệm giải trình, mở rộng quyền giám sát của nhân dân và báo chí, đồng thời nâng cao hiệu lực chế tài và sự độc lập của các cơ quan kiểm toán, thanh tra trong hệ thống chính trị - pháp luật hiện hành.

2-1751260828.jpg

Ảnh minh họa

2. Thực trạng các dạng thức lãng phí trong quản lý công ở Việt Nam hiện nay

Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý công là một yêu cầu tất yếu, gắn liền với nguyên tắc tiết kiệm và chống lãng phí. Tuy nhiên, thực tiễn quản trị quốc gia tại Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy tình trạng lãng phí trong khu vực công không những chưa được kiểm soát hiệu quả, mà còn có xu hướng gia tăng dưới nhiều hình thức khác nhau. Những dạng thức lãng phí này không chỉ gây thiệt hại trực tiếp về ngân sách, tài sản quốc gia, mà còn tạo ra hệ lụy tiêu cực đối với lòng tin xã hội và hiệu quả thực thi pháp luật. Dưới đây là một số dạng thức lãng phí phổ biến và nghiêm trọng trong quản lý công hiện nay tại Việt Nam.

2.1. Lãng phí ngân sách và tài sản công

Một trong những dạng thức lãng phí nghiêm trọng nhất là việc chi tiêu ngân sách và quản lý tài sản công thiếu hiệu quả, sai mục đích hoặc vượt quá định mức quy định. Báo cáo kiểm toán ngân sách năm 2022 của Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện hàng loạt sai phạm với tổng số kiến nghị xử lý tài chính lên đến gần 80.000 tỷ đồng, trong đó bao gồm thu hồi về ngân sách nhà nước, xử lý trách nhiệm tổ chức, cá nhân và kiến nghị sửa đổi cơ chế chính sách . Tình trạng đầu tư công dàn trải, hiệu quả thấp, đội vốn lớn vẫn tiếp diễn tại nhiều dự án, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông, thủy lợi và xây dựng cơ bản.

Một số điển hình có thể kể đến như Dự án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông đội vốn từ 552 triệu USD lên gần 891 triệu USD, chậm tiến độ gần 10 năm và gây thất thoát lớn ngân sách . Việc mua sắm tài sản công cũng xuất hiện hiện tượng thổi giá, mua sắm thiết bị không phù hợp, gây lãng phí nghiêm trọng. Ví dụ, năm 2020, vụ án mua sắm thiết bị y tế tại CDC Hà Nội cho thấy hiện tượng cấu kết giữa các doanh nghiệp và quan chức để nâng khống giá thiết bị, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng ngân sách nhà nước .

3-1751260828.jpg

Trong sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước, các cấp, các ngành cần quán triệt và thực hiện nghiêm các quy định về đầu tư công

Ngoài ra, việc sử dụng trụ sở làm việc, nhà công vụ, xe công chưa đúng tiêu chuẩn, định mức, còn phổ biến tình trạng thừa - thiếu không hợp lý. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tính đến năm 2023, cả nước có hàng nghìn m² trụ sở bỏ hoang hoặc sử dụng sai mục đích, gây lãng phí tài sản công nghiêm trọng .

2.2. Lãng phí nhân lực, thời gian và bộ máy hành chính

Tình trạng bộ máy hành chính cồng kềnh, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ và hiệu suất lao động thấp là biểu hiện rõ rệt của lãng phí trong sử dụng nguồn nhân lực công. Mặc dù nhiều đợt cải cách bộ máy hành chính đã được triển khai, song theo Báo cáo của Bộ Nội vụ năm 2022, vẫn còn hơn 100.000 công chức, viên chức được bố trí không đúng vị trí việc làm, dẫn đến lãng phí nguồn lực và giảm hiệu quả quản lý nhà nước .

Ngoài ra, việc tổ chức hội họp, công tác trong khu vực công còn diễn ra tràn lan, hình thức, thiếu thực chất. Một báo cáo đánh giá của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính trung ương chỉ ra rằng mỗi năm có hàng trăm cuộc họp cấp bộ, cấp tỉnh diễn ra nhưng nội dung lặp lại, thiếu đổi mới, gây lãng phí thời gian và chi phí hành chính rất lớn . Thêm vào đó, việc sử dụng thời gian làm việc không hiệu quả (đến muộn, về sớm, họp hành kéo dài không cần thiết...) diễn ra khá phổ biến ở nhiều cơ quan hành chính, nhưng lại chưa có chế tài xử lý đủ nghiêm minh.

2.3. Lãng phí trong quy hoạch, đất đai và đầu tư công

Một trong những lỗ hổng lớn gây lãng phí kéo dài là công tác quy hoạch và quản lý đất đai. Hiện tượng quy hoạch “treo”, dự án “ma”, sử dụng đất sai mục đích, chậm đưa vào khai thác khiến hàng nghìn hecta đất bị bỏ hoang, không tạo ra giá trị sử dụng. Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, tính đến cuối năm 2023, có trên 3.500 dự án sử dụng đất nhưng chậm tiến độ từ 3 năm trở lên, trong đó nhiều dự án được giao đất từ trước năm 2015 đến nay vẫn chưa triển khai .

Việc lập quy hoạch thiếu căn cứ khoa học, trùng lặp hoặc chồng chéo giữa các ngành, lĩnh vực cũng là nguyên nhân dẫn đến lãng phí tài nguyên và cản trở phát triển bền vững. Điều đáng lưu ý là nhiều quyết định quy hoạch được điều chỉnh vì mục đích lợi ích nhóm, gây hệ lụy nghiêm trọng về pháp lý và tài chính cho Nhà nước. Thực trạng này đòi hỏi cần có quy định pháp luật chặt chẽ hơn về trách nhiệm cá nhân khi ban hành các văn bản quy hoạch sai lệch.

4-1751260828.jpg

Bệnh viện Bạch Mai và Việt Đức cơ sở 2 tại Hà Nam là câu chuyện điển hình về lãng phí

2.4. Lãng phí trong giáo dục, y tế, tài nguyên và môi trường

Lĩnh vực giáo dục và y tế - nơi sử dụng một phần lớn ngân sách nhà nước hằng năm - cũng đang tồn tại nhiều biểu hiện lãng phí. Trong giáo dục, có tình trạng đầu tư cơ sở vật chất không đồng bộ, một số nơi xây dựng trường học hàng chục tỷ đồng nhưng thiếu học sinh hoặc không có giáo viên, ngược lại, nhiều địa phương thiếu trường lớp nhưng không được cấp vốn. Việc in ấn tài liệu, tổ chức hội thảo, biên soạn chương trình thiếu giám sát cũng là nguồn gây thất thoát ngân sách .

Trong lĩnh vực y tế, ngoài vụ việc CDC Hà Nội nêu trên, còn nhiều vụ án lớn khác như vụ Việt Á, Bệnh viện Thủ Đức, Trung tâm Y tế Bạc Liêu... liên quan đến mua sắm sinh phẩm, thiết bị y tế sai quy trình, thổi giá, gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng. Những vụ việc này không chỉ gây hậu quả tài chính mà còn làm tổn hại nghiêm trọng đến đạo đức công vụ và lòng tin của người dân đối với hệ thống y tế .

Trong khi đó, ở lĩnh vực tài nguyên và môi trường, tình trạng khai thác tài nguyên không phép, vượt công suất, không hoàn thổ, không xử lý nước thải đang gây lãng phí và tổn thất nặng nề cho hệ sinh thái quốc gia. Các báo cáo thanh tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2022 - 2023 đã phát hiện nhiều vi phạm trong hoạt động khai thác khoáng sản, rừng, nước ngầm... nhưng việc xử lý chậm, thiếu răn đe

2.5. Phân tích từ báo cáo kiểm toán, thanh tra và các vụ việc điển hình

Hệ thống báo cáo kiểm toán và thanh tra là nguồn dữ liệu pháp lý - thực chứng quan trọng giúp nhận diện rõ các dạng thức lãng phí hiện nay. Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước từ năm 2018 đến 2023 đều cho thấy số kiến nghị xử lý tài chính lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng mỗi năm. Báo cáo năm 2022 khẳng định: “Nhiều đơn vị chưa chấp hành nghiêm các quy định về quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công; có biểu hiện buông lỏng kiểm soát, gây lãng phí và thất thoát tài sản nhà nước” .

Từ thực tế trên có thể khẳng định rằng, lãng phí trong quản lý công tại Việt Nam không chỉ là vấn đề vận hành hành chính mà là vấn đề pháp lý, thể chế và trách nhiệm công vụ. Việc lãng phí tài sản công, nhân lực, thời gian, tài nguyên... nếu không được nhận diện và kiểm soát bằng các công cụ pháp lý hữu hiệu sẽ tiếp tục làm suy giảm hiệu quả quản trị quốc gia, gia tăng gánh nặng tài chính và làm chậm tiến trình phát triển bền vững.

3. Một số nguyên nhân và bất cập trong thể chế pháp luật về tiết kiệm, chống lãng phí

Lãng phí trong quản lý công không chỉ là hệ quả của nhận thức chủ quan, đạo đức công vụ yếu kém hay sự buông lỏng quản lý hành chính, mà sâu xa hơn, đó là sản phẩm tất yếu của những lỗ hổng, hạn chế và thiếu hiệu lực trong hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động sử dụng ngân sách, tài sản công và nhân lực khu vực công. Việc phân tích nguyên nhân và nhận diện bất cập trong thể chế pháp lý hiện hành không chỉ góp phần làm sáng tỏ bản chất của tình trạng lãng phí kéo dài, mà còn đặt nền tảng lý luận - pháp lý quan trọng cho việc kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thúc đẩy thực hành tiết kiệm một cách thực chất và có hiệu quả bền vững.

3.1. Bất cập trong quy định của Luật THTK, CLP năm 2013

Luật THTK, CLP năm 2013 được kỳ vọng là khung pháp lý quan trọng nhằm thể chế hóa Điều 56 của Hiến pháp năm 2013, quy định trách nhiệm thực hành tiết kiệm và chống lãng phí trong hoạt động kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước. Tuy nhiên, sau hơn một thập kỷ thực thi, đạo luật này bộc lộ không ít bất cập về cấu trúc, nội dung lẫn kỹ thuật lập pháp.

Trước hết, luật mang nặng tính định hướng, giáo dục mà thiếu cơ chế cưỡng chế đủ mạnh. Các quy định trong Luật chủ yếu dừng ở việc liệt kê các lĩnh vực cần tiết kiệm (ngân sách, đầu tư công, tài sản công, thời gian làm việc, điện, nước...) nhưng chưa làm rõ hành vi nào bị coi là lãng phí, chưa định lượng được mức độ thiệt hại hay trách nhiệm pháp lý cụ thể gắn với từng hành vi. Điều 3 của Luật đưa ra khái niệm “lãng phí” khá rộng, không gắn với hậu quả pháp lý cụ thể, dẫn đến khó khăn trong xác định vi phạm và áp dụng chế tài xử lý. Trong nhiều trường hợp, hành vi gây lãng phí nghiêm trọng nhưng không bị truy cứu trách nhiệm vì luật không có điều khoản xử lý cụ thể.

Thứ hai, luật thiếu tính thực thi vì không quy định cụ thể về hệ thống tiêu chí đo lường hiệu quả sử dụng nguồn lực công. Việc tiết kiệm thường được báo cáo theo kiểu “hình thức”, mang tính phong trào (cắt giảm chi tiêu hội họp, không nhận hoa chúc mừng...) mà không kiểm chứng được hiệu quả kinh tế hay hành chính của các quyết định quản lý. Luật cũng chưa thiết lập được chuẩn mực định lượng để đánh giá mức độ tiết kiệm, dẫn đến sự tùy tiện trong xác định tiêu chí giám sát và đánh giá kết quả thực hiện tại các bộ, ngành, địa phương .

3.2. Hạn chế trong cơ chế giám sát, thực thi và xử lý vi phạm

Bên cạnh những điểm yếu nội tại của luật, một trong những nguyên nhân khiến việc THTK, CLP chưa đạt hiệu quả là do cơ chế giám sát và thực thi chưa chặt chẽ, thiếu sự phối hợp và thiếu tính độc lập giữa các chủ thể kiểm tra - giám sát trong khu vực công.

Thứ nhất, việc giám sát thực hiện tiết kiệm và phòng, chống lãng phí hiện nay chủ yếu do cơ quan thanh tra, kiểm toán và một phần do Quốc hội, HĐND các cấp đảm nhiệm. Tuy nhiên, các thiết chế này gặp hạn chế về nguồn lực, thẩm quyền, tính chủ động và tính ràng buộc pháp lý. Ví dụ, Kiểm toán Nhà nước chỉ có thể kiến nghị thu hồi ngân sách bị sử dụng sai mục đích, không có quyền cưỡng chế thực hiện hay xử lý vi phạm hành chính, hình sự . Thanh tra thì chỉ thực hiện khi có dấu hiệu vi phạm rõ ràng, trong khi nhiều hành vi lãng phí lại tồn tại dưới dạng hợp pháp hình thức nhưng bất hợp lý thực chất, khiến việc phát hiện và xử lý trở nên khó khăn.

Thứ hai, sự phối hợp giữa các thiết chế giám sát còn thiếu hiệu quả và bị ảnh hưởng bởi tâm lý “né tránh trách nhiệm”, “dĩ hòa vi quý”. Theo Báo cáo giám sát của Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội năm 2022, nhiều địa phương chưa triển khai các kế hoạch thực hành tiết kiệm theo đúng quy định; một số ngành, lĩnh vực chưa gửi báo cáo định kỳ; trong khi các cơ quan giám sát thì chưa có chế tài đủ mạnh để buộc thực hiện .

Thứ ba, các chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực này còn rất yếu. Luật THTK, CLP 2013 không quy định rõ các mức xử phạt, các hành vi vi phạm cũng không được dẫn chiếu cụ thể đến các luật có liên quan như Luật Cán bộ, công chức; Luật Tài sản công; Bộ luật Hình sự. Điều này dẫn đến thực tế: phần lớn hành vi gây lãng phí chỉ bị nhắc nhở, kiểm điểm nội bộ mà rất ít trường hợp bị truy cứu trách nhiệm pháp lý, kể cả khi có hậu quả rõ ràng về ngân sách . Tình trạng “lãng phí hợp pháp” theo kiểu ký duyệt đúng quy trình nhưng hiệu quả thấp đang làm xói mòn niềm tin vào tính nghiêm minh của pháp luật.

2.3. Thiếu liên thông giữa các đạo luật điều chỉnh cùng lĩnh vực

Một nguyên nhân căn cơ dẫn đến tình trạng lãng phí chưa được kiểm soát chặt chẽ là sự thiếu liên thông và phối hợp giữa các đạo luật chuyên ngành điều chỉnh cùng một đối tượng là hoạt động sử dụng tài chính công, nhân lực công và tài sản công.

Hiện nay, Luật Ngân sách nhà nước (2015, sửa đổi 2024), Luật Đầu tư công (2024), Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (2017, sửa đổi 2024), Luật Cán bộ, công chức (2008, sửa đổi 2019), Luật Tổ chức chính quyền địa phương (2015, sửa đổi 2019)... đều có những quy định riêng rẽ, thiếu tính tích hợp và hỗ trợ lẫn nhau. Ví dụ, việc phân bổ ngân sách không gắn chặt với kết quả giám sát đầu tư công hay hiệu suất sử dụng tài sản công. Trong khi Luật Tài sản công quy định nguyên tắc “sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả”, thì Luật Cán bộ, công chức lại thiếu chế tài xử lý công chức vi phạm nguyên tắc đó nếu không cấu thành tội phạm .

Sự thiếu liên kết giữa các luật còn thể hiện ở việc không có cơ chế chia sẻ thông tin, đồng bộ dữ liệu và phối hợp trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý ngân sách, đầu tư công, tài sản công và quản lý nhân sự. Hậu quả là các hành vi gây lãng phí có thể lọt qua nhiều tầng giám sát, không bị phát hiện hoặc bị xử lý theo cơ chế nội bộ, thiếu tính răn đe pháp lý.

Từ những phân tích trên có thể khẳng định rằng, muốn tiết kiệm trở thành thực chất và chống lãng phí đạt hiệu quả lâu dài thì yếu tố quyết định chính là cải cách thể chế pháp luật. Cần phải chuyển từ tư duy “khuyến khích tiết kiệm” sang “buộc phải tiết kiệm”; từ “kêu gọi chống lãng phí” sang “truy cứu trách nhiệm lãng phí” bằng công cụ pháp lý rõ ràng, minh bạch và hiệu lực thi hành cao. Pháp luật không thể chỉ là lời khuyên đạo đức, mà phải trở thành chuẩn mực cưỡng chế buộc toàn bộ hệ thống công quyền vận hành trong khuôn khổ kỷ luật ngân sách và trách nhiệm sử dụng tài sản công.

5-1751260828.png

4. Kiến nghị hoàn thiện thể chế pháp luật về phòng, chống lãng phí trong quản lý công ở Việt Nam

Những phân tích về thực trạng và nguyên nhân trong các phần trên đã cho thấy rõ: lãng phí trong quản lý công không chỉ là vấn đề vận hành hành chính hay đạo đức công vụ, mà là hệ quả trực tiếp của các lỗ hổng trong hệ thống thể chế pháp lý hiện hành. Trong bối cảnh Việt Nam đang hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải kiến tạo một hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch và hiệu quả về thực hành tiết kiệm và chống lãng phí - không chỉ dưới dạng các quy định có tính chất giáo dục hay tuyên truyền, mà thực sự mang sức mạnh cưỡng chế và giá trị áp dụng thực tiễn. Dưới đây là các nhóm kiến nghị hoàn thiện thể chế pháp lý cốt lõi:

4.1. Sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật THTK, CLP năm 2013

Luật THTK, CLP năm 2013 cần được sửa đổi toàn diện theo hướng: định lượng hóa khái niệm “lãng phí”; phân loại cụ thể các hành vi vi phạm; thiết lập hệ thống tiêu chí định lượng về hiệu quả sử dụng nguồn lực công và gắn trách nhiệm pháp lý cụ thể đối với người đứng đầu các cơ quan, tổ chức nhà nước.

Trước hết, cần thay thế các quy định mang tính tuyên ngôn bằng các chuẩn mực pháp lý cụ thể. Ví dụ, quy định hiện tại về “thực hành tiết kiệm trong hội họp” nên được cụ thể hóa bằng định mức chi tiêu (số lượng cuộc họp, mức chi phí tổ chức, tiêu chí sử dụng tài liệu điện tử thay cho giấy...) để dễ kiểm soát và xử lý khi vượt ngưỡng.

Thứ hai, cần bổ sung một chương riêng quy định về trách nhiệm giải trình đối với lãng phí trong tổ chức bộ máy và sử dụng ngân sách, đồng thời trao thẩm quyền cho cơ quan kiểm toán, thanh tra được kiến nghị xử lý hành chính, thậm chí khởi tố hình sự đối với những cá nhân để xảy ra lãng phí nghiêm trọng

Thứ ba, cần bổ sung chế định “người tố giác lãng phí” với cơ chế bảo vệ pháp lý, khuyến khích báo chí, công dân, tổ chức xã hội tham gia phát hiện và giám sát lãng phí trong khu vực công. Cơ chế này đã được nhiều quốc gia như Singapore, Anh, Canada thực hiện rất hiệu quả và giúp tạo nên áp lực minh bạch từ bên ngoài đối với bộ máy công quyền .

Tại Singapore, một quốc gia nổi bật về quản lý hiệu quả nguồn lực công, Chính phủ xây dựng hệ thống “Quản trị chi tiêu công” (Public Expenditure Management - PEM) với ba trụ cột: ngân sách theo kết quả (result - based budgeting), đánh giá chi tiêu định kỳ và minh bạch hóa ngân sách qua hệ thống công bố thông tin công khai [8]. Luật Ngân sách Singapore quy định rõ trách nhiệm cá nhân của lãnh đạo cơ quan khi để xảy ra thất thoát hoặc sử dụng sai mục đích nguồn tài chính công. Điều này được hỗ trợ bởi Ủy ban Kiểm toán quốc gia độc lập, có quyền truy xuất trực tiếp hồ sơ tài chính và đề xuất truy cứu trách nhiệm hành chính - hình sự.

4.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan: đấu thầu, đầu tư công, cán bộ - công chức...

Luật THTK, CLP cần được đặt trong mối quan hệ liên thông và điều chỉnh phối hợp với các đạo luật có liên quan chặt chẽ đến sử dụng tài sản công và nguồn lực ngân sách. Trong đó, cần tập trung vào ba mảng pháp luật có tính tác động trực tiếp:

Luật Đấu thầu: cần sửa đổi để tăng tính cạnh tranh thực chất, hạn chế tình trạng “chỉ định thầu có điều kiện”, quy định chặt chẽ về đánh giá hồ sơ kỹ thuật - tài chính, đồng thời yêu cầu công khai toàn bộ quá trình đấu thầu trên cổng thông tin quốc gia để tránh tình trạng “quân xanh - quân đỏ” dẫn đến đội giá, gây lãng phí.

Luật Đầu tư công: cần đưa ra quy định khắt khe hơn về điều kiện phê duyệt dự án, tăng thẩm quyền giám sát độc lập đối với các dự án có quy mô lớn. Cơ chế thẩm định cần có tiêu chí bắt buộc về hiệu quả kinh tế - xã hội, mức độ hoàn vốn và phương án quản trị rủi ro .

Luật Cán bộ, công chức: cần mở rộng trách nhiệm pháp lý của công chức không chỉ trong hành vi tham nhũng mà cả đối với hành vi lãng phí. Cần bổ sung điều khoản quy định xử lý kỷ luật, buộc thôi việc đối với các cá nhân để xảy ra thiệt hại ngân sách do thiếu trách nhiệm trong quyết định hành chính .

4.3. Tăng cường cơ chế giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể TW  và báo chí

Một trong những yếu tố then chốt để bảo đảm hiệu quả thực thi pháp luật là tăng cường cơ chế giám sát thực chất, minh bạch và đa chiều. Trước hết, cần thiết lập hệ thống báo cáo và đánh giá việc THTK, CLP như một nội dung bắt buộc trong giám sát ngân sách hằng năm của Quốc hội, HĐND. Việc thẩm tra ngân sách không thể chỉ dừng ở con số thu - chi, mà cần có phụ lục riêng đánh giá hiệu quả sử dụng ngân sách và trách nhiệm giải trình của cơ quan sử dụng .

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần được trao quyền tham gia giám sát định kỳ hoạt động của các cơ quan hành chính, đặc biệt là trong khâu đầu tư công và chi thường xuyên. Ngoài ra, cần quy định cụ thể trong Luật Báo chí và các luật liên quan về quyền tiếp cận thông tin công của nhà báo trong việc điều tra, phản ánh hành vi lãng phí công.

4.4. Xây dựng văn hóa pháp lý về tiết kiệm trong công vụ và bộ máy nhà nước

Thể chế pháp luật không thể hoạt động hiệu quả nếu không gắn với nền tảng văn hóa pháp lý phù hợp. Vì vậy, cần đưa việc giáo dục, nâng cao nhận thức pháp lý về tiết kiệm - chống lãng phí trở thành nội dung bắt buộc trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Bộ Nội vụ cần phối hợp với Học viện Hành chính Quốc gia và các trường đào tạo cán bộ để xây dựng tài liệu giảng dạy chuyên đề về quản trị ngân sách, đạo đức công vụ và trách nhiệm pháp lý trong sử dụng nguồn lực công .

Bên cạnh đó, xây dựng chuẩn mực “văn hóa công quyền tiết kiệm” cần phải bắt đầu từ người đứng đầu. Những tấm gương lãnh đạo có lối sống giản dị, không sử dụng xe công sai mục đích, tổ chức hội họp ngắn gọn, không phô trương, chính là nhân tố dẫn dắt quá trình thay đổi nhận thức. Văn hóa tiết kiệm cũng cần được cụ thể hóa trong quy tắc ứng xử công vụ, coi việc tiết kiệm thời gian, vật tư, ngân sách, điện nước là tiêu chí thi đua hằng năm.

4.5. Đề xuất chính sách xử lý nghiêm, minh bạch hành vi lãng phí trong khu vực công

Cuối cùng, để pháp luật phát huy hiệu lực răn đe và phòng ngừa, cần quy định rõ ràng về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi gây lãng phí tài sản công, bao gồm trách nhiệm hành chính, dân sự và hình sự. Cụ thể:

Hành vi cố ý gây lãng phí nghiêm trọng (phê duyệt sai dự án, làm đội vốn, tổ chức mua sắm sai thẩm quyền...) cần được truy cứu trách nhiệm hình sự theo các điều khoản bổ sung trong Bộ luật Hình sự, có thể đề xuất sửa đổi hoặc tách thành tội danh riêng tương tự như “Tội cố ý gây thất thoát ngân sách” trong luật hình sự một số nước

Các hành vi lãng phí do thiếu trách nhiệm (không thẩm định dự án, không tổ chức đấu thầu, không giám sát thực hiện) cần bị xử lý kỷ luật công vụ, thậm chí cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý trong một thời gian nhất định.

Cần thiết lập cơ sở dữ liệu quốc gia về “hành vi lãng phí đã xử lý”, tương tự như danh sách cán bộ vi phạm quy tắc ứng xử, để tăng tính răn đe và minh bạch.

Ở Cộng hòa Liên bang Đức, Hiến pháp Liên bang quy định nguyên tắc tiết kiệm là một yêu cầu bắt buộc trong việc thông qua ngân sách liên bang (Grundgesetz, Điều 109). Đồng thời, Tòa Kiểm toán Liên bang (Bundesrechnungshof) có vai trò như một thiết chế độc lập, kiểm tra việc sử dụng tài chính công và đưa ra khuyến nghị buộc Chính phủ liên bang thực hiện điều chỉnh chính sách ngân sách nếu phát hiện vi phạm.

5. Kết luận

Bài viết đã tập trung phân tích một cách hệ thống, toàn diện và chuyên sâu về thực trạng các dạng thức lãng phí trong quản lý công tại Việt Nam hiện nay, từ đó chỉ ra những nguyên nhân cốt lõi bắt nguồn từ bất cập trong thể chế pháp luật hiện hành. Bằng cách tiếp cận chuyên ngành Luật học, bài viết không chỉ nhận diện rõ các biểu hiện lãng phí về ngân sách, tài sản công, nhân lực và quy hoạch mà còn đưa ra những kiến nghị mang tính khả thi nhằm sửa đổi, bổ sung luật định và nâng cao hiệu quả giám sát, xử lý vi phạm.

Trên cơ sở đó, có thể khẳng định rằng: thể chế pháp luật đóng vai trò trung tâm trong việc kiểm soát lãng phí, là công cụ thiết yếu để xây dựng một nền quản trị công hiệu lực, minh bạch và hướng tới phát triển bền vững. Mọi chính sách tiết kiệm và chống lãng phí chỉ có thể phát huy giá trị khi được luật hóa thành các quy phạm rõ ràng, có chế tài cụ thể và được thực thi nghiêm minh.

Đồng thời, THTK, CLP không chỉ là một yêu cầu pháp lý mà còn là trách nhiệm chính trị cao cả của mọi cán bộ, đảng viên, công chức trong bộ máy nhà nước. Chỉ khi pháp luật được tôn trọng và thực hiện đồng bộ, kết hợp với sự chuyển hóa thành chuẩn mực đạo đức công vụ và văn hóa pháp lý, thì mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát triển bền vững mới thực sự trở thành hiện thực.

-----------------------------------

Tài liệu tham khảo, trích dẫn:

 [1] Kiểm toán Nhà nước (2023), Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm 2022, gửi Quốc hội khóa XV, kỳ họp thứ 5.

[2] Quốc hội (2013), Luật THTK, CLP, số 44/2013/QH13, ban hành ngày 26/11/2013.

[3] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, Điều 56.

[4] Kiểm toán Nhà nước (2023), Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm 2022, trình Quốc hội khóa XV, kỳ họp thứ 5.

[5] Bộ Giao thông Vận tải (2022), Báo cáo đánh giá tổng thể dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông.

[6] Tòa án nhân dân TP. Hà Nội (2020), Bản án sơ thẩm số 123/2020/HSST về vụ án CDC Hà Nội.

[7] Bộ Tài chính (2023), Báo cáo quản lý, sử dụng tài sản công năm 2023, Văn bản số 241/BC-BTC.

[8 } Bộ Nội vụ (2022), Báo cáo công tác tổ chức cán bộ và hiệu quả sử dụng nhân lực công, Hội nghị Cải cách hành chính toàn quốc.

[9 ] Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ (2023), Báo cáo đánh giá hiệu quả hội họp và chi phí hành chính năm 2022.

[10] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2023), Báo cáo kiểm tra việc sử dụng đất của các dự án chậm tiến độ.

[11] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2022), Báo cáo đánh giá chi thường xuyên và đầu tư công ngành giáo dục.

[12] Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an (2022), Thông báo kết quả điều tra vụ án Công ty Việt Á.

[13] Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường (2023), Báo cáo thanh tra hoạt động khai thác tài nguyên quốc gia.

[14] Bộ Tài chính (2021), Báo cáo đánh giá thực hiện Luật THTK, CLP, số 121/BC-BTC.

[15] Kiểm toán Nhà nước (2023), Kiến nghị kiểm toán năm 2022 gửi Chính phủ, Văn bản số 1179/KTNN-TH.

[16] Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội (2022), Báo cáo kết quả giám sát việc THTK, CLP tại các địa phương.

[17] Bộ Tư pháp (2020), Báo cáo rà soát chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực ngân sách, tài sản công, Dự án hợp tác với UNDP.

[18] Thanh tra Chính phủ (2022), Tổng kết việc thực hiện các quy định pháp luật liên ngành về tài sản công, ngân sách và công vụ, số 379/BC-TTCP.

[19] Quốc hội (2023), Luật Đấu thầu, số 22/2023/QH15 ngày 23/6/2023; Luật số 57/2024/QH15 ngày 29/11/2024 sửa đổi Luật Đấu thầu 2023.

[20] Quốc hội (2024), Luật Đầu tư công, số 58/2024/QH15, ban hành ngày 29/11/2024.

[21] Quốc hội (2008, sửa đổi 2019), Luật Cán bộ, công chức, số 22/2008/QH12 và Luật số 52/2019/QH14.

[22] Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội (2023), Báo cáo giám sát ngân sách năm 2022.

Lê Hùng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Minh)

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin