
Ảnh minh hoạ
1. Pháp luật ngân hàng trong tiến trình chuyển đổi số và phát triển kinh tế số ở Việt Nam
Ở Việt Nam, kinh tế số được xác định là một trong những trụ cột quan trọng và đóng vai trò thiết yếu đối với tăng trưởng kinh tế, tạo bước đột phá cho các quốc gia. Để thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia và tạo đà cho nền kinh tế số phát triển thì thể chế cần đi trước một bước khi có thể. Do đó, Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đề ra chủ trương bên cạnh việc nhấn mạnh “Hoàn thiện thể chế tạo thuận lợi cho chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số quốc gia” cũng nhấn mạnh tài chính ngân hàng là ngành “Tập trung phát triển các ngành ưu tiên có mức độ sẵn sàng cao”. Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 phê duyệt “Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” cũng đã nêu rõ quan điểm thể chế kiến tạo phát triển kinh tế số và xã hội số, đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo và bảo đảm trách nhiệm tuân thủ pháp luật như nhau giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, đồng thời nhấn mạnh: Ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm là một trong những ngành cần tập trung phát triển kinh tế số và xã hội số trong từng ngành, lĩnh vực theo hướng thiết lập môi trường phù hợp cho đổi mới sáng tạo, tăng cường sự chỉ đạo chiến lược và khai thác linh hoạt nguồn lực tài chính cho hoạt động hỗ trợ chuyển đổi số, hình thành hệ sinh thái kinh tế số, xã hội số ngành, lĩnh vực.
Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực kinh doanh và cũng đang trong tiến trình chuyển đổi số mạnh mẽ với nội dung là tích hợp nghiệp vụ ngân hàng truyền thống vào các nền tảng công nghệ để cung ứng cho khách hàng, đảm bảo sự liền mạch trong mọi hoạt động của ngân hàng từ chuyển khoản/giao dịch, kết nối cho đến tư vấn cho khách hàng. Về hình thức, cũng giống như các giao dịch kinh doanh khác, hoạt động ngân hàng số cũng diễn ra trên môi trường internet và các phần mềm ứng dụng giúp khách hàng và ngân hàng tương tác và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng. Khác với hoạt động ngân hàng điện tử (E-Banking) là hệ thống dịch vụ ngân hàng điện tử (bao gồm các dịch vụ như Internet Banking, SMS Banking, Mobile Banking) được tạo ra để bổ sung cho các dịch vụ trên nền tảng ngân hàng truyền thống (digital out) thì ngân hàng số (Digital Banking) là một loại hình ngân hàng kỹ thuật số có đầy đủ chức năng của một ngân hàng, từ cơ cấu tổ chức đến quy trình làm việc, sản phẩm dịch vụ, chứng từ và phương thức giao dịch với khách hàng (bao gồm cả digital in và digital out). Digital Banking là đòi hỏi cao về công nghệ bao gồm sự đổi mới trong dịch vụ tài chính cho khách hàng xung quanh các chiến lược về ứng dụng kỹ thuật số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), thanh toán, RegTech, dữ liệu lớn, công nghệ chuỗi khối (blockchain), API, kênh phân phối và công nghệ. Việc phát triển ngân hàng số giúp các ngân hàng tiết kiệm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao tính tuân thủ và minh bạch trong hoạt động kinh doanh. Đối với khách hàng, ngân hàng số giúp khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng thuận tiện, an toàn với tiện ích tối đa, tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính, hỗ trợ phát triển kinh doanh trực tuyến.
Pháp luật ngân hàng là lĩnh vực có nội dung rộng và liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó, cốt lõi là hai bộ phận là: Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng. Là một bộ phận của tiến trình chuyển đổi số quốc gia, nên các định hướng chính sách, pháp luật sẽ có tác động trực tiếp đến tiến trình chuyển đổi số và phát triển kinh tế số không chỉ ở khía cạnh nghiệp vụ mà còn cả các quy định pháp luật có liên quan. Cụ thể:
Thứ nhất, đối với pháp luật về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Sự tác động của quá trình chuyển đổi số quốc gia và phát triển kinh tế số đòi hỏi đặt ra yêu cầu đổi mới toàn diện hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước theo hướng hiện đại, trên cơ sở ứng dụng và khai thác hiệu quả các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí, chỉ số về chuyển đổi số của Chính phủ.

Thứ hai, pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng. Bộ phận pháp luật này có nội dung quy định về thành lập, hoạt động, tổ chức lại, giải thể và phá sản tổ chức tín dụng. Các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng có liên quan trực tiếp đến luân chuyển nguồn vốn trong nền kinh tế để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, trong đó có phát triển kinh tế số với nội dung chủ yếu là phát triển các mô hình ngân hàng số, gia tăng tiện ích, trải nghiệm khách hàng và thực hiện mục tiêu tài chính toàn diện, phát triển bền vững trên cơ sở thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến trong quản trị điều hành và cung ứng sản phẩm, dịch vụ theo hướng tự động hóa quy trình, tối ưu hóa hoạt động nghiệp vụ.
Thứ ba, đối với các quy định pháp luật khác liên quan đến pháp luật ngân hàng cũng đang trong giai đoạn sửa đổi, bổ sung nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về chuyển đổi số và phát triển kinh tế số, trong đó trọng tâm là các quy định pháp luật xây dựng Chính phủ số, xã hội số, giao dịch điện tử, Luật công nghệ thông tin…, trong đó:
- Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025 xem công nghiệp công nghệ số là ngành kinh tế - kỹ thuật dựa trên sự kết hợp của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số nhằm tạo ra các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số; là bước phát triển tiếp theo của công nghiệp công nghệ thông tin.
- Luật Giao dịch điện tử năm 2023 quy định việc thực hiện giao dịch bằng phương tiện điện tử. Phương tiện điện tử là phần cứng, phần mềm, hệ thống thông tin hoặc phương tiện khác hoạt động dựa trên công nghệ thông tin, công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ khác tương tự. Để bảo đảm giao dịch điện tử được thực hiện một cách thuận tiện, Luật Giao dịch điện tử quy định về hợp đồng điện tử, chữ ký số, chữ ký điện tử, chứng thư chữ ký điện tử, dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử… Các quy định này tạo lập khuôn khổ pháp luật cho việc xác lập giao dịch kinh doanh thương mại trong nền kinh tế số.

Ảnh minh hoạ
2. Cơ hội và thách thức trong hoàn thiện pháp luật ngân hàng phục vụ phát triển kinh tế số
2.1. Cơ hội hoàn thiện pháp luật ngân hàng phục vụ phát triển kinh tế số
Một là, đã có sự thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của pháp luật điều chỉnh quan hệ ngân hàng trong nền kinh tế số. Theo đó, tài chính ngân hàng được xác định là “lĩnh vực có tác động xã hội, liên quan hàng ngày tới người dân, thay đổi nhận thức nhanh nhất, mang lại hiệu quả, giúp tiết kiệm chi phí cần ưu tiên chuyển đổi số trước”.
Hai là, đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đã chủ động xây dựng Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 phấn đấu đến năm 2030 có: Ít nhất 70% hoạt động kiểm tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của Ngân hàng Nhà nước; 100% hồ sơ công việc tại Ngân hàng Nhà nước được xử lý và lưu trữ trên môi trường mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước).
Bên cạnh các chỉ tiêu phấn đấu trên, Ngân hàng Nhà nước cũng đã có kế hoạch trong việc rà soát, chỉnh sửa khuôn khổ pháp lý cho chuyển đổi số ngành ngân hàng, bao gồm: Nghiên cứu, rà soát và đề xuất sửa đổi, bổ sung các vấn đề cần được Luật hóa để phù hợp với thực tiễn và xu hướng ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng, từng bước tạo lập nền tảng pháp lý vững chắc cho việc hình thành và phát triển các mô hình ngân hàng số. Xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn dữ liệu, tiêu chuẩn kỹ thuật ngành Ngân hàng nhằm phục vụ việc kết nối, chia sẻ, khai thác dữ liệu trong ngành Ngân hàng và giữa ngành Ngân hàng với các ngành, lĩnh vực khác. Rà soát, nghiên cứu, đề xuất ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động chuyển đổi số ngân hàng.
Ba là, đã thiết lập được định hướng hoàn thiện chính sách bảo đảm cho hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng đáp ứng được nhu cầu trong quá trình phát triển kinh tế số. Trong giai đoạn chuyển đổi số, phát triển kinh tế số việc cung ứng dịch vụ thanh toán cần phải được dựa trên các nền tảng công nghệ, do đó, Quyết định số 1813/QĐ-TTg ngày 28/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025” đề ra các giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt được đề ra rất cụ thể và đều dựa trên nền tảng công nghệ số và đối tượng, nhóm đối tượng cần được ưu tiên hướng đến chủ yếu là các tổ chức có đông người thực hiện thanh toán, chi trả. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các tổ chức tín dụng thực hiện cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đáp ứng yêu cầu của tiến trình chuyển đổi số ở Việt Nam
Một số các công nghệ tiên tiến hiện nay đang được ứng dụng rộng rãi trong các ngân hàng số có thể kể đến như: Công nghệ chuỗi khối (Blockchain)/sổ cái phân tán (DLT) được ứng dụng để giao kết hợp đồng điện tử trong các hoạt động tài trợ thương mại truyền thống; công nghệ lập trình ứng dụng (API) để kết nối giữa ngân hàng với các bên đối tác thứ ba như nhà cung cấp, doanh nghiệp để tạo thêm nhiều ứng dụng mới, cung cấp thêm tiện ích cho khách hàng; công nghệ dữ liệu lớn như Big Data, trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (ML) được các ngân hàng áp dụng để phân tích hành vi, nhu cầu khách hàng giúp tối ưu hóa, cá nhân hóa việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ; công nghệ tự động hóa quy trình bằng robot (RPA) giúp cắt giảm các quy trình, thủ tục, nghiệp vụ tại ngân hàng; công nghệ điện toán đám mây (Cloud Computing) giúp tiết kiệm chi phí vào hạ tầng kết nối, truyền tải, lưu trữ thông tin.
Trong hoạt động cấp tín dụng, pháp luật Việt Nam hiện hành cũng đã có nhiều quy định về hoạt động ngân hàng điện tử và trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong bảo mật thông tin khách hàng. Theo đó, người quản lý, người điều hành, nhân viên của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được tiết lộ thông tin khách hàng, bí mật kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải bảo đảm bí mật thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Chính phủ. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng. Bên cạnh đó, Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải bảo đảm an toàn hệ thống thông tin, bảo mật dữ liệu và hoạt động liên tục theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và quy định khác của pháp luật có liên quan. Trên cơ sở các quy định này, cùng với các hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tạo lập cơ sở pháp lý để tổ chức tín dụng cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử trong nền kinh tế số.
2.2. Thách thức trong hoàn thiện pháp luật ngân hàng phục vụ phát triển kinh tế số
Thứ nhất, các quy định thường không theo kịp với tốc độ số hóa nhanh chóng của nền kinh tế, còn có khoảng cách giữa quy định pháp luật với việc thực thi trong thực tế, chưa có hành lang pháp lý cho thí điểm triển khai áp dụng các mô hình kinh doanh, dịch vụ mới. Đây là thách thức lớn cho hoạt động xây dựng pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam.
Thứ hai, các quy định về bảo vệ cơ sở dữ liệu, dữ liệu cá nhân, thông tin riêng tư còn chưa đầy đủ; vấn đề quyền cá nhân, đạo đức khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo; định danh số và xác thực điện tử cho người dân đang từng bước hoàn thiện, song cơ chế quản lý, bảo mật trong lĩnh vực ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn.
Thứ ba, rủi ro công nghệ và nguy cơ bị tấn công làm gián đoạn hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Yêu cầu đặt ra đối với việc cung ứng dịch vụ ngân hàng số là khả năng ứng phó hiệu quả, kịp thời tình trạng gián đoạn của các dịch vụ ngân hàng (Disruption of Banking Services) đặc biệt trong bối cảnh các mô hình sáng tạo như truyền thông xã hội, di động, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, công nghệ vây, blockchain, thực tế ảo và đòi hỏi của thực tế nhu cầu khách hàng. Có thể khẳng định, ngân hàng số sẽ mang lại cho các tổ chức tín dụng nhiều cơ hội trong việc đưa ra các ưu đãi mới có giá trị, đặc biệt là sự kết hợp các dịch vụ hiện có của các ngân hàng thương mại với các thành tựu kỹ thuật số mới. Mặc dù vậy, công nghệ số dù phát triển đến mức nào đi chăng nữa cũng ẩn chứa những rủi ro tiềm tàng được thể hiện ở những “lỗ hổng” công nghệ mà nếu không chủ động có biện pháp ứng phó thì ngân hàng sẽ rơi vào trạng thái bị động và không bảo vệ tốt quyền lợi khách hàng. Trong những năm tới, làn sóng chuyển đổi ngân hàng di động-kỹ thuật số dựa trên nền tảng đám mây thông qua các quan hệ đối tác chiến lược, liên doanh, sáp nhập và mua lại giữa các fintech và các công ty công nghệ lớn, các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác để tạo ra giá trị và sức mạnh tổng hợp quy mô là xu hướng tất yếu. Trong bối cảnh đó, các ngân hàng thương mại sẽ đối mặt với nguy cơ mất doanh thu trong bộ phận thanh toán hoặc chuyển tiền, nơi mục tiêu ban đầu của các đổi mới công nghệ tài chính với các dịch vụ lấy khách hàng làm trung tâm, trong đó an ninh mạng tài chính công nghệ sẽ trở thành một ưu tiên đáng kể vì các ngân hàng hoặc ứng dụng ngân hàng chỉ sử dụng kỹ thuật số là tiêu chuẩn. Yếu tố an toàn thông tin đã tác động trực tiếp đến “cảm nhận dễ sử dụng” và “cảm nhận rủi ro” của khách hàng trong việc sử dụng dịch vụ ngân hàng số đòi hỏi các ngân hàng nên xây dựng hệ thống quản lý thông tin khách hàng chặt chẽ và bảo mật. Sự nhầm lẫn trong giao dịch sẽ làm giảm tính bảo mật trong nhận thức, rủi ro nhận thấy cao từ khách hàng sẽ có tác động tiêu cực đến thái độ đối với dịch vụ, dẫn đến giảm ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng số của khách hàng.
Thứ tư, thiếu các thiết chế cần thiết để bảo vệ người tiêu dùng dịch vụ ngân hàng – tài chính trong nền kinh tế số. Bảo vệ quyền lợi khách hàng là trung tâm và là vấn đề quan trọng hàng đầu trong phát triển ngân hàng. Thực tiễn vận hành ngân hàng số cho thấy, đối với, khách hàng, những băn khoăn về tính an toàn của giao dịch và nguy xâm phạm dữ liệu cá nhân là cản trở chủ yếu cho quyết định sử dụng dịch ngân hàng số của khách hàng. Do vậy, cam kết bảo vệ khách hàng trước những sự cố kỹ thuật trong sử dụng ngân hàng số thông qua việc đáp ứng yêu cầu về bảo mật, an toàn thông tin giao dịch sẽ quyết định đến việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng số. Có hai biện pháp bảo vệ quyền lợi khách hàng là biện pháp phòng ngừa (thông qua quy định biện pháp, cách thức bảo vệ khách hàng) trong pháp luật về ngân hàng số và bảo vệ pháp vệ người sử dụng dịch vụ ngân hàng số thông qua giải quyết các vấn đề hoặc tranh chấp phát sinh được gọi là bảo vệ đàn áp. Ở Liên bang Nga, chất lượng bảo vệ bí mật khách hàng không ngừng được cải thiện thông qua việc lưu trữ dữ liệu khách hàng trong các máy chủ của các ngân hàng thương mại nhằm tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt hơn tất cả các chức năng cung ứng dịch vụ ngân hàng số cần thiết.
Yêu cầu đặt ra trong bảo vệ quyền lợi khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng số không chỉ dựa vào nền tảng pháp luật mà còn phải dựa trên các tiêu chuẩn đạo đức trong cung ứng dịch vụ ngân hàng số như đánh giá mức độ tín nhiệm, thu thập và sử dụng dữ liệu khách hàng trong mối tương quan với bảo vệ quyền riêng tư, bí mật khách hàng trong sử dụng dịch vụ ngân hàng số. Một hệ thống ngân hàng số minh bạch, công bằng, an toàn và bảo mật, tránh được những rủi ro và tác hại có thể dự đoán hoặc ngẫu nhiên trong quá trình vận hành là những tiêu chuẩn cho việc đánh giá mức độ bảo vệ quyền lợi khách hàng. Nói cách khác, bảo vệ khách hàng trong cung ứng và sử dụng dịch vụ ngân hàng số là sự biểu hiện thực chất trên thực thế mối quan hệ bình đẳng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng, là nhân tố bảo đảm cho việc thiết lập một hệ thống ngân hàng vững chắc, hiệu quả, mạnh mẽ, góp phần tạo lập một hệ thống tài chính ổn định, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia.

PGS. TS. Viên Thế Giang phát biểu tại Hội thảo khoa học: “Đưa Nghị quyết 66-NQ/TW vào cuộc sống: Yêu cầu, cơ chế và giải pháp thực thi” (Hội thảo do Viện IBLA và Tạp chí Pháp lý tổ chức vào tháng 9/2025)
3. Phối hợp giữa nhà nước, chuyên gia, luật gia trong hoàn thiện pháp luật ngân hàng
Hoàn thiện pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật nói riêng, bên cạnh ý tưởng, sáng kiến lập pháp, quy trình lập pháp của nhà nước, sự tham gia của chuyên gia, luật gia, cá nhân, tổ chức xã hội vào quá trình lập pháp là rất cần thiết. Trong nhà nước pháp quyền, xây dựng pháp luật, bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội và Nhân dân, chuyên gia, nhà khoa học tham gia xây dựng pháp luật. Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Ban Chấp hành trung ương về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đã “có cơ chế, chính sách kéo dài thời gian công tác, không giữ chức vụ cho một số cán bộ, công chức đã đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định nhưng có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm thực tiễn sâu sắc về xây dựng pháp luật. Thu hút, tiếp nhận chuyên gia, nhà khoa học pháp lý, luật gia, luật sư giỏi vào khu vực công”. Đây là các cơ sở chính trị quan trọng để bảo đảm cho các chuyên gia, luật giao tham gia vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Đối với lĩnh vực pháp luật ngân hàng, để bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia, luật gia trong hoàn thiện pháp luật ngân hàng phục vụ cho phát triển kinh tế số, tác giả kiến nghị:
Một là, thống nhất nhận thức sự tham gia của chuyên gia, nhà khoa học, luật gia vào công tác xây dựng pháp luật là sự thể trên thực tế quyền làm chủ của nhân dân trong nhà nước pháp quyền. Quyền tham gia xây dựng pháp luật là một quyền Hiến định và được ghi nhận tại Điều 28 Hiến pháp năm 2013: “1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”.
Hai là, cần nhanh chóng cụ thể về nội dung, hình thức, trình tự, thủ tục để nhân dân tham gia một cách dễ dàng, hiệu quả để mọi chính sách, pháp luật, quyết định của Nhà nước đều “thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”; bảo đảm cho “nhân dân thụ hưởng” những thành quả từ việc thực hiện các chính sách, pháp luật, quyết định của Nhà nước. Đối với pháp luật ngân hàng, sự tham gia của chuyên gia, luật gia có ý nghĩa rất quan trọng, do pháp luật ngân hàng là lĩnh vực đòi hỏi khi tham gia góp ý, xây dựng pháp luật cần có kiến thức chuyên môn về hoạt động ngân hàng.
Ba là, thiết lập cơ chế phản hồi các ý kiến đóng góp của luật gia, chuyên gia như là “bảo chứng” cho các góp ý hợp lý đi vào nội dung văn bản pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng.
----------------------
Tài liệu tham khảo
1. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
2. Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Phê duyệt “Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
3. Hoàng Nguyên Khai, Nguyễn Đắc Hưng, Phát triển thanh toán trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế số tại Việt Nam hiện nay, Khoa học Xã hội Việt Nam số 3/2023, tr.74-81. DOI: 10.56794/KHXHVN.KHXHVN.3(183).74-81
4. Nguyễn Thị Phương Thảo, Khung pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng số tại các nước ở châu Á và gợi mở chính sách cho Việt Nam, truy cập tại tapchinganhang.gov.vn ngày 1-01/8/2023.
5. Luật các Tổ chức tín dụng năm 2024.
6. Naimi-Sadigh, A., Asgari, T. & Rabiei, M. Digital Transformation in the Value Chain Disruption of Banking Services. J Knowl Econ (2021). https://doi.org/10.1007/s13132-021-00759-0
7. Luigi Wewege, Jeo Lee and Michael C. Thomsett, Disruptions and Digital Banking Trends, Journal of Applied Finance & Banking, Vol. 10, No. 6, 2020, pp.45.
8. Dat Ngoc NGUYEN, Duy Van NGUYEN, and Dat Dinh NGUYEN, Distribution information safety and factors affecting the intention to use digital banking in Vietnam, Journal of Distribution Science, 18-6 (2020), pp.90.
9. Phophalia, S., Digital Banking: Issues and Challenges. Journal of Banking and Insurance Law, 1(1)/2019, pp. 15. Retrieved from http://lawjournals.celnet.in/index.php/jbil/article/view/120
10. Herdian Ayu Andreana Beru Tarigan, Darminto Hartono Paulus, Protection of customers for management of digital banking services (Study at PT. BRI UNIT BOYOLALI), Hang Tuah Law Journal, Vol 3 Issue 2, October 2019, pp.175.
11. Etembekov R.K., Digital transformation of banking services in Russia, European Journal of Natural History, No.1, 2021, pp.17.
12. Syarifah Lisa Andriati, Faradila Yulistari Sitepu, Legal protection for customers using internet banking services in Indonesia, PalArch’s Journal of Archaeology of Egypt / Egyptology, 17(7)/2020, pp.2433, Retrieved from https://www.archives.palarch.nl/index.php/jae/article/view/1559
13. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 27-NQ/TW 2022 ngày 9/11/22022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.