Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới

Ngày 09/11/2022, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW). Đây là Nghị quyết chuyên đề của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Việc khẳng định các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thể hiện tư duy mới, tầm nhìn chiến lược của Đảng ta trong đổi mới hệ thống chính trị, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong định hướng lý luận nhận thức cũng như giúp xác định rõ mục tiêu cần đạt được trong xây dựng, hoàn thiện mô hình, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và mối quan hệ giữa các thiết chế trong bộ máy nhà nước, là cơ sở để giải quyết tốt mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước nhanh, bền vững trong tình hình mới.

1. Quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, đây là quá trình phát triển lâu dài, bền bỉ và gắn chặt với lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam. Đảng ta đã từng bước nhận thức, hình thành hệ thống các quan điểm ngày càng đầy đủ về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trên cơ sở kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo kinh nghiệm trên thế giới; có chủ trương, lộ trình khoa học, sát với đòi hỏi của thực tiễn để không ngừng hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

1-1719376369.jpg

Tại Hội nghị Trung ương 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết 27 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (ảnh Đặng Phước)

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01/1994) đã chính thức đưa vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam vào Văn kiện của Đảng, khẳng định nhiệm vụ chiến lược: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”.    

Đến Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022, Đảng ta khẳng định rõ 08 đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đây là lần đầu tiên Đảng ta xác định thống nhất, đầy đủ, rõ ràng về các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong một Nghị quyết của Ban Chấp hành trung ương trên cơ sở Cương lĩnh, Hiến pháp và Văn kiện Đại hội Đảng các nhiệm kỳ, phù hợp với những đặc trưng, giá trị phổ quát của Nhà nước pháp quyền đã được thế giới công nhận, đồng thời, thể hiện được tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Đây là một điểm mới, nổi bật của Nghị quyết này. Cụ thể là: Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây là đặc trưng riêng có của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là tất yếu lịch sử, quy luật của xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam, nhân tố bảo đảm bản chất, sự thành công của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đây là đặc trưng đồng thời cũng là nguyên tắc, quan điểm nhất quán, xuyên suốt trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 

Đồng chí Tổng Bí thư đã nhiều lần khẳng định đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn, là nền tảng vững chắc, không cho phép ai ngả nghiêng, dao động. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đặc trưng này khẳng định Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước phục vụ Nhân dân, đặt quyền lợi của Nhân dân lên trên hết; Nhà nước tạo mọi điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trên các lĩnh vực, trực tiếp tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và quản lý xã hội. Mặt khác trong tổ chức và hoạt động của mình, Nhà nước có trách nhiệm tôn trọng và phục vụ Nhân dân, thực hiện có hiệu quả và đúng đắn sự ủy quyền của Nhân dân, bảo đảm mọi quyết sách của Nhà nước phải vì lợi ích của Nhân dân, của quốc gia, dân tộc. 

Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật. Công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân vừa là bản chất, vừa là mục tiêu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là lấy con người làm trung tâm, bảo đảm quyền con người và phát triển con người toàn diện; mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Đây là đặc trưng xuyên suốt bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm, tổ chức bộ máy nhà nước do Hiến pháp và pháp luật quy định. 

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây là đặc trưng thể hiện giá trị đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước; quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều có chung nguồn gốc thống nhất từ Nhân dân. Quyền lực nhà nước được giới hạn bởi Hiến pháp và pháp luật.

Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán. Đây là đặc trưng mang tính phổ biến của mọi nhà nước pháp quyền, là điều kiện cần và đủ để bảo đảm xã hội có trật tự, kỷ cương, xác lập được vị trí tối thượng của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. 

Độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là một trong những đặc trưng cốt lõi, được thừa nhận rộng rãi, như một giá trị không thể thiếu của Nhà nước pháp quyền để thực hiện pháp luật công bằng, nghiêm minh, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ công lý, nghiêm cấm mọi sự can thiệp vào hoạt động xét xử. Tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Đây là đặc trưng phổ biến của Nhà nước pháp quyền, thể hiện trách nhiệm của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Hội nhập quốc tế là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và góp phần tích cực gìn giữ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.

“Hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội. Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán. Hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, được kiểm soát hiệu quả”.

Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.

2. Để thực hiện tốt nhiệm vụ, giải pháp theo yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW, trong  thời gian tới cần chú trọng một số nội dung sau:

Một là, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. 

Nghị quyết số 27-NQ/TW chủ trương: “thể chế hóa đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. tổng kết việc thực hiện và nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của Nhân dân; có cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của Nhân dân tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước”. Để thể chế hóa quan điểm này, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của công dân. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục chủ trương phát huy tính tích cực, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. theo đó, để bảo đảm quyền của công dân tham gia quản lý nhà nước, xã hội thì trước tiên cần nâng cao vai trò của công dân, bảo đảm công dân được tham gia nhiều hơn vào công tác quản lý, xây dựng chính sách, pháp luật; đóng góp ý kiến đối với các chương trình, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tham gia giám sát, phản biện xã hội. 

Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu: “Cụ thể hóa và xây dựng cơ chế để các chủ thể thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”. Vì vậy, thời gian tới, cần tích cực triển khai xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Bảo vệ Hiến pháp (bảo hiến) chính là bảo vệ nền tảng chính trị - pháp lý của quốc gia, bảo vệ chế độ, bảo vệ nền dân chủ XHCN.

Hai là, đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật.

Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả. Quy định rõ hơn quy trình xây dựng chính sách, quy trình lập pháp và xây dựng văn bản dưới luật. Phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể, đặc biệt là Chính phủ trong quy trình lập pháp.

Ba là, tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội.

Vấn đề đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội đặt ra yêu cầu trước tiên là cần hướng đến xây dựng cơ chế Quốc hội hoạt động thường xuyên hơn và số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách nhiều hơn số lượng đại biểu kiêm nhiệm. Nghị quyết số 27-NQ/TW nêu rõ: “tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp. tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội theo hướng nghiên cứu tăng hợp lý số kỳ họp của Quốc hội”. Chất lượng hoạt động của Quốc hội phụ thuộc vào 03 yếu tố: thời gian và số lượng kỳ họp của Quốc hội; năng lực, chuyên môn của đại biểu và số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách. tuy nhiên, cần nghiên cứu kỹ từ thực tiễn để đề xuất số lượng kỳ họp trong năm cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Bên cạnh đó, số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở nước ta không nhiều, đa số là các đại biểu hoạt động kiêm nhiệm nên quá trình thực hiện nhiệm vụ đại biểu cũng còn gặp khó khăn do quỹ thời gian thực hiện nhiệm vụ đại biểu hạn chế, có lúc, có nơi phát sinh xung đột lợi ích, giao thoa nhiệm vụ, quyền hạn. Vì vậy, mục tiêu cần hướng tới đó là: (1) Xây dựng cơ chế để Quốc hội hoạt động thường xuyên hơn, số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách ngày càng tăng. Nếu thực hiện được vấn đề này sẽ nâng cao được chất lượng và bảo đảm tính độc lập, khách quan trong hoạt động của Quốc hội. (2) Hoàn thiện các cơ chế về điều kiện hỗ trợ hoạt động của đại biểu, như: Đội ngũ hỗ trợ, cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động,… nhằm phát huy hiệu quả công tác của đại biểu Quốc hội.

Bốn là, hoàn thiện các quy định về giải thích pháp luật.

Giải thích pháp luật là công cụ bảo đảm tính minh bạch của pháp luật; tính minh bạch của hệ thống pháp luật sẽ bị đe dọa nếu thiếu một cơ chế giải thích pháp luật hữu hiệu. theo Khoản 2, Điều 74 Hiến pháp năm 2013, Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. thể chế hóa cơ chế giải thích pháp luật cần xác định được những nội dung trọng tâm bao gồm: Cơ quan có thẩm quyền giải thích gắn với từng loại văn bản quy phạm pháp luật; trình tự, thủ tục giải thích gắn với từng cơ quan. Đồng thời, cần có cơ chế xem xét, công nhận tính pháp lý đối với các văn bản giải thích làm cơ sở để áp dụng thống nhất pháp luật trên cả nước.

Năm là, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương.   

Cần xây dựng cơ chế bầu cử trực tiếp người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương nhằm tăng cường và phát huy tính dân chủ trong hoạt động của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Trước tiên, có thể thí điểm mô hình này ở các địa phương đang thí điểm xây dựng chính quyền đô thị, không tổ chức HĐND cấp xã và cấp huyện. Định hướng này phù hợp với quan điểm của Bộ Nội vụ về việc nghiên cứu mô hình thị trưởng và tòa thị chính nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu quản lý những vấn đề phát sinh liên tục, cần sự giải quyết nhanh chóng và hiệu quả của một đô thị. Hoàn thiện quy định về trách nhiệm cá nhân của các thành viên và tập thể của Chính phủ. Công tác quản lý vĩ mô, xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật của Chính phủ thời gian qua đã đạt được một số kết quả khả quan, tạo chuyển biến tích cực, góp phần hoàn thiện thể chế, giúp nền kinh tế ổn định và phát triển. Ở Việt Nam, các quy định về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn đã có nhưng đối với tập thể Chính phủ trong Hiến pháp năm 2013 và các luật có liên quan chưa được quy định rõ ràng. Do đó, cần thiết phải tiếp tục quy định rõ trách nhiệm của cá nhân từng thành viên Chính phủ và trách nhiệm tập thể của Chính phủ trong quản lý vĩ mô và xây dựng chính sách nhằm phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý và điều hành của cơ quan hành pháp.

Sáu là, xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. 

Nghị quyết số 27-NQ/TW nêu rõ: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử”. 

Do đó, cần bảo đảm sự độc lập của tòa án. Tư pháp độc lập là nội dung cơ bản của Nhà nước pháp quyền bởi khi thẩm phán độc lập, họ sẽ giải quyết tranh chấp một cách công bằng, theo đúng quy định của pháp luật. Để hệ thống tòa án Việt Nam thật sự độc lập trong xét xử cần chú trọng một số nội dung: (1) Nghiên cứu sắp xếp, tổ chức hệ thống tòa án theo khu vực thay vì đơn vị hành chính. (2) Nghiên cứu xây dựng cơ chế giám sát của người dân đối với hoạt động của tòa án. (3) tăng thời hạn nhiệm kỳ của thẩm phán, hướng tới xây dựng cơ chế thẩm phán suốt đời. 

Tăng cường thẩm quyền của tòa án trong quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Nghị quyết số 27-NQ/TW yêu cầu: “Mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử các vi phạm hành chính, quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân”. Đây là một điểm mới trong quan điểm chỉ đạo của Đảng ta đối với thẩm quyền của tòa án đòi hỏi luật, các văn bản dưới luật cần phải có quy định cụ thể, rõ ràng tạo hành lang pháp lý để phát huy thẩm quyền của tòa án trong xét xử các vi phạm hành chính, quyết định các vấn đề liên quan đến quyền con người và quyền công dân.

Ths. Vương Thị Kim Cúc

(Phó trưởng Ban pháp chế, HĐND quận Hoàng Mai)

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin