Doanh nghiệp cần biết: Biện pháp phòng vệ thương mại của một số quốc gia

(Pháp lý) – Trước thực trạng các vụ kiện về chống bán phá giá có xu hướng ngày càng gia tăng trên phạm vi toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải trang bị cho mình các biện pháp phòng vệ hiệu quả. Một trong những giải pháp phòng vệ quan trọng, đó là các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) của một số quốc gia có doanh nghiệp đối tác, để có biện pháp phòng vệ phù hợp…
1-1741944970.png

EC đã nhận được hồ sơ đầy đủ hợp lệ về yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp CBPG đối với sản phẩm thép cuộn cán nóng nhập khẩu từ VN

Số vụ kiện PVTM đối với hàng hóa đến từ Việt Nam tăng hơn 4 lần

Theo Trung tâm WTO và Hội nhập, đến cuối năm 2024, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán 17 FTA với trên 60 quốc gia, vùng lãnh thổ và đồng thời đang đàm phán 3 FTA và khung khổ kinh tế. Việc đẩy mạnh mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào mạng lưới FTA thế hệ mới đã giúp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, củng cố thị trường truyền thống, tạo điều kiện cho các DN Việt Nam có cơ hội tham gia vào các thị trường tiềm năng trên thế giới, góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng…

Tuy nhiên, cùng với mở rộng thị trường, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh, số lượng các vụ việc điều tra PVTM mới đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ngày càng nhiều. Theo Cục PVTM (Bộ Công Thương), nếu như giai đoạn 2001-2011 có 50 vụ thì đến giai đoạn 2012-10/2024 là 214 vụ (tăng hơn 4 lần). Tính lũy kế đến hết tháng 10/2024, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt với 267 vụ việc điều tra PVTM từ 25 thị trường và vùng lãnh thổ điều tra. Trong đó, đứng đầu là điều tra CBPG (146 vụ việc), tiếp đó là các vụ TV (54 vụ việc), chống lẩn tránh biện pháp PVTM (38 vụ việc) và chống TC (29 vụ việc).

Để giúp cho các DN phòng ngừa, có sự chuẩn bị trước và đối phó các biện pháp PVTM của các quốc gia, từ năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 01/3/2020 về phê duyệt Đề án Xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống cảnh báo sớm về PVTM. Theo đó Đề án tập trung cảnh báo trước những mặt hàng xuất khẩu có nguy cơ bị nước ngoài điều tra PVTM nhằm giúp các DN, qua đó giúp các cơ quan chức năng thực hiện các hoạt động hỗ trợ DN có trọng tâm, trọng điểm. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, DN xử lý hiệu quả, đồng thời công tác cảnh báo sớm cũng ngày càng được đẩy mạnh, giúp thu được một số kết quả tích cực ban đầu… Tuy nhiên những nỗ lực đó không làm thay đổi đáng kể thực trạng chung khi mà các biện pháp PVTM của các quốc gia áp dụng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày càng “khó tính” hơn.

Các nước đang có xu hướng thắt chặt, đòi hỏi khắt khe hơn trong quá trình điều tra, áp dụng các biện pháp PVTM. Thực tế cho thấy, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đang bị các thị trường nhập khẩu “soi” rất kỹ. Trong khi đó đối tượng bị áp dụng biện pháp PVTM ngày càng phổ rộng hơn về số lượng và quy mô. Nếu như trước đây chỉ dừng lại ở những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn và chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng truyền thống thì nay hàng hóa bị khởi kiện từ nông, thủy sản, cho đến sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo cho dù quy mô đơn hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu nhỏ.

Nguy cơ càng gia tăng khi mà Việt Nam tham gia sâu vào các chuỗi cung ứng khu vực, trở thành quốc gia thường xuyên bị kiện chung với một số nước có kim ngạch xuất khẩu lớn. Không chỉ bị gia tăng điều tra PVTM mà còn bị nghi ngờ chuyển tải bất hợp pháp nhằm lẩn tránh thuế PVTM đối với các nước này… tạo ra thách thức đáng kể cho các doanh nghiệp trong nước. Vì vậy để giảm thiểu phát sinh và giảm thiểu thiệt hại từ các vụ kiện PVTM và nếu phải đối mặt với các vụ kiện PVTM của các quốc gia nhập khẩu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, các DN cần chủ động tìm hiểu và nắm bắt thật kỹ hành lang pháp lý về biện pháp PVTM của các đối tác (nhất là các quốc gia áp dụng biện pháp PVTM đối với hàng hóa Việt Nam nhiều nhiều nhất) là rất cần thiết.

Cục PVTM (Bộ Công Thương): Để hạn chế các vụ kiện PVTM và giảm thiểu thiệt hại khi bị điều tra PVTM, doanh nghiệp cần chú trọng nghiên cứu, tìm hiểu về các nguyên tắc quy trình, thủ tục điều tra phòng vệ thương mại; theo dõi thông tin cảnh báo của Bộ Công Thương; xây dựng chiến lược kháng kiện rõ ràng, thống nhất từ đầu vụ việc…

Biện pháp PVTM của một số quốc gia có số vụ điều tra PVTM cao (sau Hoa Kỳ) đối với hàng hóa đến từ Việt Nam

1. Ấn Độ: Các biện pháp PVTM được áp dụng dưới hình thức thuế bổ sung bên cạnh thuế nhập khẩu thông thường

Ấn Độ hiện là một trong mười đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch thương mại hai chiều trên 10 tỷ USD. Đây đồng thời là thị trường thuộc nhóm sử dụng nhiều nhất các biện pháp PVTM trong WTO, nhất là PVTM trong giai đoạn 2020-2024. Đối với Việt Nam kể từ khi tham gia vào các hiệp định thương mại như RCEP (đã tăng khả năng xuất khẩu của Việt Nam), làm tăng thêm nhu cầu tìm kiếm sự bảo vệ của các ngành công nghiệp Ấn Độ. Phần lớn các biện pháp PVTM ở Ấn Độ được áp dụng dưới hình thức thuế bổ sung bên cạnh thuế nhập khẩu thông thường (bao gồm thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, tự vệ)…

Các biện pháp PVTM của Ấn Độ được quy định chủ yếu trong Luật thuế Hải quan năm 1975 được sửa đổi, bổ sung năm 1995, Bộ quy tắc về Thuế quan năm 1995, Luật Ngoại thương năm 1992, Bộ quy tắc về thuế quan năm 1997, các Quy tắc về Biện pháp Tự vệ (Hạn chế Định lượng) năm 2012. Ấn Độ đã sớm hoàn thiện mô hình cơ quan điều tra, áp dụng biện pháp PVTM bảo đảm tính độc lập, khách quan.  Như vậy, cơ quan có thẩm quyền điều tra và đề xuất áp dụng biện pháp PVTM là DGTR, thuộc nhánh hành pháp và trực thuộc Bộ Công thương. DGTR có hai nhiệm vụ: (i) Tiến hành điều tra vụ việc PVTM; (ii) Đề xuất áp dụng biện pháp PVTM. Trên cơ sở đề xuất của DGTR, Bộ Tài chính là cơ quan có thẩm quyền ra quyết định cuối cùng.

2-1741945077.jpg

Ấn Độ đã tiến hành điều tra 31 vụ việc PVTM với hàng hóa Việt Nam

+ Điều kiện để áp dụng biện pháp PVTM: Luật pháp ở Ấn Độ quy định, một biện pháp PVTM chỉ có thể được xem xét áp dụng khi hội tụ đủ các điều kiện sau đây: (i) Có hành vi bán phá giá/trợ cấp hoặc nhập khẩu tăng đột biến hàng hóa vào Ấn Độ - còn gọi là điều kiện hành vi; (ii) Ngành sản xuất nội địa bị thiệt hại/đe dọa thiệt hại đáng kể (với phá giá/trợ cấp) hoặc nghiêm trọng (với tự vệ) – điều kiện về thiệt hại; (iii) Có mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá/trợ cấp hoặc nhập khẩu tăng đột biến hàng hóa với thiệt hại/nguy cơ thiệt hại mà ngành sản xuất Ấn Độ phải chịu - điều kiện về mối quan hệ nhân quả.

Có 2 trường hợp để cơ quan có thẩm quyền xem xét: (i) Chỉ khi các nhà sản xuất nội địa có ít nhất 25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của ngành sản xuất nội địa của ủng hộ Đơn yêu cầu; (ii) Trường hợp Đơn yêu cầu có cả ý kiến phản đối và ủng hộ thì tổng sản lượng của các nhà sản xuất nội địa ủng hộ phải chiếm hơn 50% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được sản xuất bởi tất cả các nhà sản xuất nội địa. Trong trường hợp thứ 2, DGTR phải có tương đối đủ các bằng chứng cơ bản thỏa mãn các điều kiện về hành vi, thiệt hại và mối liên hệ giữa hành vi bị cáo buộc và thiệt hại của ngành sản xuất nội địa.

+ Đối tượng yêu cầu và thẩm quyền giải quyết: Tổng vụ Phòng vệ thương mại (General Department of Trade Defense - DGTR) thuộc Bộ Công thương là cơ quan có thẩm quyền điều tra và đưa ra đề xuất về việc áp dụng biện pháp PVTM tạm thời hoặc chính thức. Trên cơ sở đề xuất của DGTR, Bộ Tài chính sẽ xem xét để ra quyết định áp dụng hay không áp dụng biện pháp PVTM. DGTR thực hiện điiều tra dựa trên nguồn thông tin từ cơ quan hải quan cung cấp mà không nhất thiết phải dựa vào Đơn kiện của ngành sản xuất nội địa Ấn Độ. Tuy nhiên trên thực tế, hiếm khi DGTR tự khởi xướng một vụ việc PVTM, phần lớn các vụ việc PVTM đều xuất phát từ Đơn yêu cầu của ngành sản xuất nội địa Ấn Độ. Để đảm bảo DGTR thụ lý Đơn kiện phải xuất phát từ (nhóm) doanh nghiệp đủ lớn để đại diện cho cả ngành sản xuất loại hàng hóa liên quan của Ấn Độ.

+ Các mặt hàng nhiều nguy cơ bị Ấn Độ điều tra PVTM: Cùng với sự gia tăng xuất khẩu của hàng hóa nước ta sang Ấn Độ, số lượng vụ việc hàng Việt bị khởi kiện CBPG, CTC tại thị trường này cũng đang tăng nhanh trong những năm gần đây. Trong năm 2023, Ấn Độ tiếp tục tiến hành các vụ việc điều tra CBPG mới với ống thép hàn không gỉ và các vụ viêc rà soát biện pháp PVTM đối với ống thép hàn không gỉ, ống đồng, hạt nhựa PVC. Gần đây nhất (theo thông báo của Cục Phòng vệ thương mại hồi tháng 9 và tháng 12/2024) có 3 mặt hàng bị DGTR khởi xướng điều tra, gồm: (i) Calcium carbonate filler masterbatch có xuất xứ hoặc nhập khẩu từ Việt Nam bị điều tra CBPG; (ii) Thép hợp kim hoặc không hợp kim cán phẳng nhập khẩu vào Ấn Độ bị áp dụng biện pháp tự vệ; (iii) Sợi nylon filament yarn có xuất xứ hoặc xuất khẩu từ Trung Quốc, Việt Nam bị điều tra CBPG.

Ngoài 2 mặt hàng nói trên, trước đó theo danh sách cảnh báo các sản phẩm có nguy cơ bị điều tra áp dụng biện pháp PVTM được Bộ Công Thương cập nhật ban hành kèm theo Công văn số 4155/BCT-PVTM ngày 17/06/2024 thì mặt hàng Kính nổi (mã HS tham khảo: 7005.10) thuộc nhóm mặt hàng có nguy cơ bị DGTR khởi xướng điều tra PVTM, gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp…

Xếp sau Hoa Kỳ và EU, Ấn Độ là quốc gia có số vụ áp dụng các biện pháp PVTM nhiều nhất đối với hàng hóa đến từ Việt Nam. Đến nay Ấn Độ đã tiến hành điều tra 31 vụ việc PVTM với hàng hóa Việt Nam. Trong đó riêng biện pháp CBPG, từ năm 2020 đến nay, Ấn Độ đã áp dụng với 491 biện pháp, chiếm tỉ lệ 17,5% tổng số biện pháp CBPG có hiệu lực. Tuy Ấn Độ thực hiện nhiều cuộc điều tra BPG, song tỷ lệ số vụ đi đến kết luận áp dụng biện pháp CBPG không cao như Mỹ, EU…

2. EU: Các biện pháp PVTM dựa trên các quy tắc của WTO và có thể áp dụng thêm một số điều kiện bổ sung

Theo thống kê của WTO, mặc dù xếp sau Hoa Kỳ là Liên minh Châu Âu (EU) và Ấn Độ về số vụ điều tra PVTM, nhưng hiện nay EU chỉ đang áp dụng duy nhất biện pháp tự vệ có liên quan tới sản phẩm thép của Việt Nam…

EU đã xây dựng được thị trường nội khối đơn nhất thông qua một hệ thống luật lệ được tiêu chuẩn hóa, áp dụng tại tất cả các quốc gia thành viên trong và chỉ trong những vấn đề mà các thành viên nhất trí sẽ hành động như một thực thể đơn nhất. Theo Vụ Chính sách thương mại và đa biên (Bộ Công Thương), các chính sách PVTM hiện Liên minh Châu Âu sử dụng các công cụ PVTM dựa trên các quy tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và có thể áp dụng thêm một số điều kiện bổ sung cho các quy tắc này để tái thiết lập môi trường cạnh tranh công bằng cho ngành công nghiệp EU khi bị tổn hại từ hàng nhập khẩu bán phá giá hoặc trợ cấp.

+ Đối tượng yêu cầu và thẩm quyền giải quyết: Nếu như Ấn Độ các vụ việc PVTM đều xuất phát từ Đơn yêu cầu của ngành sản xuất nội địa Ấn Độ hoặc do Tổng vụ PVTM Bộ Công Thương tự khởi xướng điều tra dựa trên nguồn thông tin từ cơ quan hải quan cung cấp; thì thẩm quyền điều tra các cáo buộc BPG đối với các nhà sản xuất hàng xuất khẩu tại các nước ngoài EU là Uỷ ban Châu Âu (EC). Cơ quan này cũng có thẩm quyền tự khởi xướng các cuộc điều tra dựa trên nguồn thông tin từ cơ quan hải quan cung cấp, đối với trường hợp nghi vấn; hoặc mở một cuộc điều tra sau khi nhận được đơn khiếu nại từ các nhà sản xuất EU có liên quan. Bất kỳ cá nhân hoặc pháp nhân, hoặc bất kỳ hiệp hội nào không có tư cách pháp nhân, đại diện cho ngành công nghiệp Liên minh đều có thể yêu cầu EC hoặc Tổng cục Thương mại bắt đầu một cuộc điều tra về PVTM.

Đối với biện pháp trợ cấp (TC), EC áp dụng khi có căn cứ cho rằng một chính phủ hoặc một tổ chức công ngoài EU hỗ trợ tài chính cho các công ty để họ sản xuất hoặc xuất khẩu hàng hóa, làm ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm nhập khẩu vào EU. Khi đó EC sẽ mở cuộc điều tra đối với các khoản trợ cấp này để làm rõ có tạo ra sự bất công và làm tổn thương các doanh nghiệp EU hay không. EC được phép chống lại mọi tác động bóp méo thương mại của các khoản trợ cấp này đối với thị trường EU. Đối với biện pháp tự vệ (TV), được sử dụng trong trường hợp một ngành công nghiệp của EU bị ảnh hưởng bởi sự tăng mạnh, không dự đoán trước và đột ngột của hàng nhập khẩu. Mục đích của biện pháp này là để cho phép ngành công nghiệp EU một khoảng thời gian tạm thời để thực hiện những điều chỉnh cần thiết.

+ Thời gian điều tra và chế tài: Một cuộc điều tra do EC thực hiện thường phải được hoàn thành trong 9 tháng, nhưng trong một số trường hợp nhất định, có thể được kéo dài đến 11 tháng. Các biện pháp PVTM được EU sử dụng, gồm: CBPG (biện pháp này xảy ra khi các nhà sản xuất từ một quốc gia ngoài EU bán hàng hóa tại EU dưới mức giá bán tại thị trường nội địa của họ hoặc thấp hơn chi phí sản xuất). Thông thường của EU là sẽ áp thuế đối với hàng nhập khẩu của sản phẩm cụ thể từ quốc gia bị điều tra. Thuế này có thể cố định, thay đổi hoặc theo tỷ lệ phần trăm của tổng giá trị. Riêng đối với thuế CBPG có thể kéo dài trong 6 tháng (trong trường hợp áp dụng biện pháp tạm thời) hoặc dài hạn tới 5 năm.

3-1741944977.png

Thép là mặt hàng được EU ưu tiên bảo hộ chỉ sau nông nghiệp…

 Đối với TC, EU có thể áp một số loại thuế để hạn chế các lợi ích từ việc được trợ cấp đối với các hàng hoá nhập khẩu khi khoản trợ cấp này ảnh hưởng đến một ngành hoặc một nhóm ngành công nghiệp cụ thể. Các biện pháp trả đũa dưới hình thức áp thuế đối với hàng nhập khẩu của các sản phẩm được trợ cấp (cố định, thay đổi hoặc theo tỷ lệ). Các biện pháp này có thể kéo dài trong 4 tháng (biện pháp tạm thời) hoặc dài hạn tới 5 năm. Trong khi đó đối với biện pháp TV, tạm thời có thể kéo dài tới 200 ngày và các biện pháp dứt khoát lên tới 4 năm. Nếu áp dụng vượt quá 3 năm, các biện pháp áp dụng phải được xem xét giữa kỳ và có thể được gia hạn cho đến tổng cộng 8 năm.

+ Các mặt hàng dự báo có nguy cơ cao nhất bị EU áp dụng biện pháp PVTM: (i) Nông sản: EU là khu vực đứng đầu thế giới về các chính sách trợ cấp, bảo hộ nông nghiệp. Bất kỳ mặt hàng nào khi nhập vào EU nếu gây thiệt hại cho người nông dân sở tại thì sẽ bị đưa vào danh sách ưu tiên áp dụng PVTM. Tới đây các chế phẩm nông sản như sữa của Vinamilk, THtrue Milk khi xuất sang EU có nguy cơ cao nhất bị áp dụng các biện pháp PVTM; (ii) Mặt hàng da giày: Do các doanh nghiệp sản xuất giày da quy mô lớn ở nước ta chủ yếu là đầu tư FDI gia công cho các thương hiệu của EU, Hoa Kỳ. Đây là mặt hàng đã từng bị áp biện pháp phòng vệ thương mại vào năm 2005;

(iii) Dệt may: Việt Nam hiện vẫn đang nhập khẩu sợi phục vụ sản xuất nhưng dự báo với lợi thế ưu đãi từ EVFTA, Việt Nam có thể sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư FDI sản xuất mặt hàng sợi để xuất sang EU; (iv) Thép: Là mặt hàng được EU ưu tiên bảo hộ chỉ sau nông nghiệp và thực tế EU đã áp dụng tự vệ toàn cầu hạn ngạch thuế quan 25%. Gần đây nhất hồi cuối tháng 7/2024, Cục PVTM Bộ Công thương cho biết, EC cũng vừa có thông báo về việc nhận được yêu cầu điều tra chống bán phá giá với thép HRC có xuất xứ từ Việt Nam; (v) Ngành hàng đồ gỗ, xe đạp và phụ tùng: Bộ Công Thương đã nhận được nhiều đề nghị từ EU yêu cầu làm rõ nguồn gốc xuất xứ của một số lô hàng, đồng thời cảnh báo nhóm mặt hàng này vào EU đang gây thiệt hại cho doanh nghiệp trong khối.

3. Canada: Thường xem xét luồng nhập khẩu từ tất cả các quốc gia liên quan, dù lượng xuất khẩu có thể không đáng kể

Theo Thương vụ Việt Nam tại Canada, tính đến tháng 9/2024, Canada đã khởi xướng điều tra 19 vụ việc phòng vệ thương mại với các hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, trong đó bao gồm 12 vụ việc chống bán phá giá (CBPG), 5 vụ việc chống trợ cấp và 2 vụ việc phòng vệ. Đáng chú ý trong số 19 vụ việc liên quan đến Việt Nam, có 8 vụ vẫn còn đang bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại hoặc đang bị tiến hành điều tra, điều tra lại để gia hạn.

Canada cũng áp dụng hệ thống các biện pháp PVTM theo cách hiểu của WTO, bao gồm các công cụ pháp lý mà các nhà sản xuất nội địa Canada có thể sử dụng nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp của mình trước hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài vào Canada. Tuy nhiên có sự khác biệt về bản chất: Nếu như Biện pháp CBPG (anti-dumping measure); và Biện pháp CTC (countervailing measure) được quốc gia này áp đụng để chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bóp méo thương mại của hàng hóa nhập khẩu nhằm khôi phục lại sự công bằng cho ngành sản xuất nội địa trong cạnh tranh với nhà xuất khẩu nước ngoài; thì Biện pháp tự vệ (safeguard measure) được sử dụng để bảo vệ tạm thời ngành sản xuất nội địa trước sự gia tăng nhập khẩu đột ngột, mạnh và không lường trước được, qua đó tạo điều kiện để ngành sản xuất Canada có thể thực hiện những điều chỉnh cần thiết trong một thời gian nhất định.

Do sự khác biệt đó dẫn tới những khác biệt đáng kể trong các quy định cụ thể về căn cứ pháp lý, điều kiện, trình tự, thủ tục, cách thức áp dụng các biện pháp CBPG - CTC và các biện pháp tự vệ. Các cơ quan có thẩm quyền điều tra và thủ tục điều tra CBPG - CTC và điều tra tự vệ ở Canada cũng khác nhau.

+ Điều kiện, thẩm quyền xem xét PVTM của Canada: Theo Thương vụ Việt Nam tại Canada, khi đã điều tra một sản phẩm, Canada thường xem xét luồng nhập khẩu từ tất cả các quốc gia liên quan, dù lượng xuất khẩu có thể không đáng kể. Đối với các sản phẩm điều tra không do các nhà sản xuất Việt Nam nhưng được bán sang Canada từ những nhà xuất khẩu Việt Nam, Cơ quan dịch vụ biên giới Canada (CBSA) – cơ quan có thẩm quyền PVTM sẽ vẫn gửi thư lưu ý cho phía Việt Nam để phối hợp. Một khi bị vào “tầm ngắm” của CBSA, các sản phẩm đều bị điều tra cả thuế CBPG và thuế đối kháng.

4-1741944976.jpg

Các biện pháp CBPG và đối kháng theo hướng điều tra PVTM của Canada ngày càng khắt khe hơn

+ Những thay đổi về quy trình PVTM của Canada: Gần đây, Canada có một số thay đổi lập pháp đối với các biện pháp chống bán phá giá và đối kháng theo hướng điều tra PVTM ngày càng khắt khe hơn, theo hướng trao quyền và mức độ linh hoạt cao hơn cho CBSA và CITT. Trong đó đáng chú ý là thay đổi thời hạn thông báo cho nước xuất khẩu về quyết định khởi xướng điều tra vụ việc. Theo đó, Canada chỉ thông báo cho các chính phủ liên quan trước 7 ngày (thay vì 30 ngày trước khi quyết định điều tra) đối với khiếu nại liên quan đến BPG và trước 20 ngày đối với khiếu nại liên quan đến TC. Về thời gian để hoàn thành việc xem xét hết hạn đối với các phán quyết áp dụng thuế CBPG hoặc đối kháng của CBSA có 150 ngày; và của Tòa án TMQT Canada (CITT) có 160 ngày (kể từ ngày CBSA gửi kết luận theo hướng cần thiết phải gia hạn các biện pháp).

Trong thời gian xem xét, các biện pháp áp thuế vẫn có hiệu lực; trong trường hợp kết luận theo hướng không cần gia hạn, các khoản thuế sẽ được hoàn trả. Cũng theo quy định mới, CITT sẽ tự động xem xét hết hạn đối với mọi phán quyết khi hết hạn 5 năm mà không cần phải lấy ý kiến các bên liên quan để thực hiện đánh giá hết hạn (02 tháng trước khi hết hạn). Tuy nhiên CITT sẽ vẫn gửi cho các bên liên quan thông báo về việc tiến hành xem xét hết hạn. Canada cũng mới cho phép các công đoàn có quyền nộp đơn khiếu nại về thuế CBPG và thuế đối kháng để tăng cường sự tham gia của người lao động vào hệ thống PVTM của Canada.

+ Các mặt hàng xuất khẩu có nguy cơ bị Canada điều tra: (i) Mặt hàng khung xe đầu kéo/khung xe container và tháp gió (turbin gió): Đây là những mặt hàng được nhập khẩu từ Trung Quốc mà doanh nghiệp Việt Nam có thế mạnh hiện đang bị phía Canada tiến hành điều tra CBPG (theo bà Trần Thu Quỳnh, Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Canada); (ii) Gần đây nhất là sản phẩm nội thất văn phòng bọc vải; tháp điện gió và tấm năng lượng mặt trời là những mặt hàng được nhập khẩu từ Việt Nam, theo Tham tán có nguy cơ bị điều tra bỡi CBSA;

(iii) Trước đó hồi tháng 6/2023, Canada đã áp dụng thuế với 7 mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam bao gồm: ống thép hàn cacbon, thép cán nguội, thép cốt bê tông, khớp nối bằng ống đồng, thép tấm chống ăn mòn, ống đúc dẫn dầu và ghế bọc đệm; (iv) Ngoài ra một số sản phẩm có nhiều nguy cơ khác của Việt Nam có thể là: thép cuộn cán nóng, vít/khớp nối thép, sàn thép lưới, ống đồng, máy làm mát, máy sưởi nhiệt, gỗ ván sàn công nghiệp, ống khoan, ống đóng cọc và nhôm thanh định hình…

VŨ LÊ MINH

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin