Phát huy vai trò của Hội Luật gia Việt Nam trong thực hiện Nghị quyết 66-NQ/TW: Từ nhận thức đến hành động

Đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu cao về phát triển bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng, công cuộc hoàn thiện thể chế, pháp luật trở thành nhiệm vụ mang tính sống còn. Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đã ra đời như một bước ngoặt, một lời hiệu triệu cho một cuộc cải cách thể chế sâu sắc. Để hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 66, việc phát huy vai trò của các tổ chức chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp, đặc biệt là Hội Luật gia Việt Nam và giới luật gia cả nước, là một yêu cầu khách quan và cấp thiết. Bài luận sau sẽ phân tích quá trình chuyển đổi mang tính bước ngoặt ở Hội Luật gia Việt Nam: Từ việc nhận thức sâu sắc những chủ trương cốt lõi của Nghị quyết 66, đến việc cụ thể hóa thành các hoạt động thực tiễn, đồng thời chỉ ra những thách thức còn tồn tại và đề xuất các giải pháp chiến lược.
1-1758789775.jpg

Đại biểu Quốc hội, TS. Trần Công Phàn – Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch thường trực Hội Luật gia Việt Nam phát biểu chỉ đạo Hội thảo Khoa học: “ Đưa Nghị quyết 66 vào cuộc sống - Yêu cầu, cơ chế và giải pháp thực thi” (Hội thảo do Viện IBLA và Tạp chí Pháp lý tổ chức)

Phần I

Nhận thức sâu sắc về công tác xây dựng pháp luật trong kỷ nguyên mới

1. Sự cần thiết phải đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật

Đất nước đang đứng trước một giai đoạn phát triển mới, được định hình bởi những yêu cầu về hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, và một nền kinh tế dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Điều này đòi hỏi hệ thống pháp luật phải thay đổi để theo kịp và tạo động lực cho sự phát triển. Các quy định pháp luật cần tạo ra hành lang pháp lý, mở đường cho những mô hình kinh doanh mới, công nghệ tiên tiến và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, một thực tế tồn tại trong nhiều năm qua là không ít chủ trương lớn, đúng đắn của Đảng đã gặp khó khăn khi đi vào cuộc sống do vướng mắc ở khâu thể chế hóa và thực thi pháp luật. Những điểm nghẽn thể chế này không chỉ cản trở sự phát triển mà còn làm suy giảm niềm tin.

Công tác xây dựng và thi hành pháp luật cần đổi mới để khắc phục những hạn chế, bất cập hiện có như sự chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính khả thi của một số văn bản pháp luật. Một hệ thống pháp luật rõ ràng, đồng bộ, nhất quán và hiệu quả, với các quy định mang tính dân chủ, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận và dễ thực hiện sẽ không chỉ giúp nâng cao năng lực quản lý của nhà nước, giảm thiểu rủi ro, tiêu cực và tạo môi trường ổn định, công bằng cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội mà còn tạo niềm tin cho người dân và doanh nghiệp, khuyến khích họ tham gia vào quá trình phát triển đất nước.

Một hệ thống pháp luật minh bạch, ổn định, phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng được các cam kết trong các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia sẽ tạo ra môi trường kinh doanh hấp dẫn, cạnh tranh, là yếu tố then chốt để thu hút đầu tư nước ngoài và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Quan trọng hơn, đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật là cách tốt nhất để thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các nghị quyết, chủ trương của Đảng. Hệ thống pháp luật phải là cơ sở pháp lý vững chắc để triển khai các đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Tóm lại, đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật không chỉ là nhiệm vụ mang tính kỹ thuật mà còn là nhiệm vụ mang tính chiến lược, quyết định đến sự thành công của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Vì vậy việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới là rất cần thiết và đúng đắn. Nghị quyết 66 ghi dấu một bước ngoặt quan trọng trong tư duy và hành động đối với công tác xây dựng và thi hành pháp luật của Việt Nam.

2. Nghị quyết 66-NQ/TW – “Đột phá của đột phá” trong định hướng hoàn thiện thể chế

Nghị quyết 66-NQ/TW không chỉ là một văn bản định hướng mà còn là một nền tảng chiến lược, xác lập một cách nhìn mới về vai trò của pháp luật. Nghị quyết đã chỉ rõ, công tác xây dựng và thi hành pháp luật là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Điều này có nghĩa pháp luật không còn chỉ là khâu trung gian, mà là điểm nghẽn cần phải khai thông trước để các đột phá khác có thể phát huy hiệu quả. Nghị quyết nhấn mạnh một quan điểm chỉ đạo hết sức quan trọng, đó là “đầu tư cho công tác xây dựng chính sách, pháp luật là đầu tư cho phát triển”.

Điểm đột phá lớn nhất của Nghị quyết 66 là sự chuyển đổi tư duy lập pháp sâu sắc. Có thể nói, Nghị quyết 66 là lời hiệu triệu cho một cuộc cải cách thể chế nhằm chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo, phục vụ và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Nếu tư duy quản lý (management) truyền thống xem pháp luật là công cụ để Nhà nước điều chỉnh, kiểm soát hành vi, thì tư duy kiến tạo - phục vụ coi pháp luật là một “cơ chế vượt trội” để kích thích sáng tạo, tháo gỡ điểm nghẽn và bảo vệ các quyền lợi chính đáng.

Sự thay đổi này không chỉ là thay đổi về kỹ thuật lập pháp, mà là một sự tái định hình cơ bản về mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa quyền lực và quyền lợi. Một hệ thống pháp luật theo tư duy quản trị (governance) sẽ tạo ra tính minh bạch và dân chủ cao hơn, có tính linh hoạt và thích ứng hơn với xã hội hiện đại. Vì tư duy quản trị chú trọng đến sự tham gia, đối thoại và phối hợp giữa các bên liên quan, tạo ra một sân chơi công bằng cho tất cả các chủ thể, theo đó khuyến khích sự tham gia của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội vào quá trình xây dựng và thực thi pháp luật. Trong khi đó tư duy quản lý truyền thống, thường mang tính mệnh lệnh, tập trung vào việc kiểm soát và tuân thủ các quy định một cách khuôn khổ, ít năng động, thiếu linh hoạt; vì vậy khó thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội..

Sự thay đổi này trực tiếp tạo ra một môi trường mở hơn, khuyến khích sự tham gia của các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp như Hội Luật gia Việt Nam. Nếu trước đây, sự tham gia chỉ mang tính chất “đóng góp ý kiến”, thì nay với tư duy mới, sự tham gia này trở thành một yêu cầu khách quan, một phần không thể thiếu của quá trình lập pháp “vì nhân dân phục vụ”. Nghị quyết 66 cũng xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng là định hướng chiến lược, giám sát và tạo cơ chế, không can thiệp vào kỹ thuật lập pháp.

Mục tiêu chiến lược của Nghị quyết 66 là đến năm 2030, Việt Nam sẽ có một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển nhanh chóng.

2-1758789785.png

Đại biểu Quốc hội, TS. Trần Công Phàn – Phó Chủ tịch thường trực Hội Luật gia Việt Nam trả lời phỏng vấn các đài truyền hình HTV, ANTV, PL và 20 cơ quan báo chí tại Hội thảo Khoa học: “ Đưa Nghị quyết 66 vào cuộc sống - Yêu cầu, cơ chế và giải pháp thực thi” (Hội thảo do Viện IBLA và Tạp chí Pháp lý tổ chức)

Phần II

Nghị quyết 66 mở ra không gian và yêu cầu mới để Hội Luật gia Việt Nam phát huy vai trò mạnh mẽ hơn

1. Hội Luật gia Việt Nam - Tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp đặc thù

Hội Luật gia Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp thống nhất, tự nguyện của các luật gia trong cả nước, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước. Cở sở pháp lý cho vị trí, vai trò của Hội được xác định tại Chỉ thị  56 ngày 18/ 8/2000  và Chỉ thị 14 ngày 1/7/2022 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam và quy định rõ tại Điều lệ Hội Luật gia Việt Nam, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 770/QĐ-TTg ngày 5/6/2020.

Điều lệ Hội đã xác định 13 nhiệm vụ và quyền hạn của Hội, trong đó có những chức năng then chốt đối với công tác xây dựng pháp luật: (i) Tham gia xây dựng pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý: Đây là chức năng chuyên môn quan trọng nhất, cho phép Hội đóng góp trực tiếp vào quá trình lập pháp; (ii) Tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật, kiến nghị với cơ quan nhà nước những vấn đề về xây dựng và thi hành pháp luật: Được theo dõi việc tuân thủ và thực hiện các quy định pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân. Từ đó đưa ra các đề xuất, ý kiến đóng góp cho các cơ quan nhà nước về những bất cập, hạn chế hoặc những vấn đề cần điều chỉnh trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật; (iii) Tham gia phản biện và giám định xã hội: Chức năng này là cơ sở để Hội đưa ra các ý kiến khách quan, độc lập, bảo vệ lợi ích của nhân dân và cộng đồng; (iv) Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật: Nhiệm vụ này giúp nâng cao ý thức pháp luật của người dân, đưa pháp luật vào cuộc sống.

2. Vai trò của Hội Luật gia và mối liên hệ với tinh thần Nghị quyết 66

Tinh thần đổi mới của Nghị quyết 66 đã mở ra một không gian và yêu cầu mới để Hội Luật gia Việt Nam phát huy vai trò của mình một cách mạnh mẽ hơn. Tư duy “kiến tạo, phục vụ” đòi hỏi phải có sự tham gia của một lực lượng chuyên môn, độc lập, có khả năng phản biện khách quan, đó chính là giới luật gia. Vai trò của Hội Luật gia Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết 66 không chỉ dừng lại ở việc tham gia góp ý, mà còn tích cực tham gia giám sát và “tạo phản hồi từ cơ sở” để đảm bảo tính khả thi và thực chất của pháp luật.

Một vấn đề mang tính hệ thống trong công tác xây dựng pháp luật mà Nghị quyết 66 xác định rõ, đó là sự chồng chéo và mâu thuẫn trong các văn bản quy phạm pháp luật. Việc giải quyết vấn đề này không thể chỉ đến từ bên trong bộ máy nhà nước mà cần có sự phản hồi khách quan từ các lực lượng xã hội. Với chức năng giám sát và phản biện xã hội đã được quy định trong Điều lệ, HLG chính là lực lượng, là cơ chế hiệu quả để thực hiện điều đó. Do đó, Nghị quyết 66 không chỉ là một văn kiện chính trị mà còn là “đòn bảy” thể chế để HLG vượt qua những rào cản, khó khăn và khẳng định vai trò của mình một cách mạnh mẽ hơn.

Nghị quyết 66 đặt trọng tâm vào việc đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống và xây dựng “văn hóa tuân thủ pháp luật”. Điều này không thể đạt được chỉ bằng các mệnh lệnh hành chính. Vai trò của HLG thông qua các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý cho người dân chính là cơ chế để kiểm tra tính khả thi của pháp luật từ góc độ người dân. Những vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn (ví dụ như việc xác định giá đất, các thủ tục hành chính) mà luật gia phát hiện được thông qua hoạt động này sẽ trở thành dữ liệu quý giá để phản biện, kiến nghị với cơ quan nhà nước. Do đó, HLG không chỉ tham gia ở khâu xây dựng mà còn ở khâu thực thi, qua đó góp phần cải tiến liên tục cho hệ thống pháp luật…

Vì vậy có thể nói, để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 66, cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị, trong đó HLG Việt Nam đóng một vai trò không thể thiếu.

Phần III

Từ nhận thức đến hành động

Nhận thức sâu sắc về vai trò của mình trong công cuộc đổi mới theo Nghị quyết 66, Hội Luật gia VN và giới luật gia đã có nhiều hoạt động tích cực, thể hiện sự chuyển hóa từ tư tưởng thành hành động cụ thể.

Hội Luật gia VN luôn xác định tham gia xây dựng và thi hành pháp luật là một trong những nhiệm vụ chính trị trung tâm.

Trước khi có Nghị quyết 66, thực hiện Chỉ thị số 56-CT/TW ngày 18/8/2000 và Chỉ thị 14 - CT/TW ngày 01/7/2022 của Bộ Chính trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Luật gia VN trong tình hình mới; Nghị quyết số 27/NQ-TW của Ban Chấp hành TW Đảng khóa XIII về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới”,  Đảng đoàn Hội Luật gia VN (trước đây) và hiện nay là Đảng ủy Trung ương Hội Luật gia VN quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao công tác tham gia xây dựng chính sách và pháp luật và đạt được nhiều kết quả tích cực, đáp ứng công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước. 

Vì vậy có thể nói, tinh thần của Nghị quyết 66/NQ-TW đã được Hội Luật gia VN khởi động từ rất sớm. Hàng trăm cuộc hội thảo, tọa đàm, nghiên cứu góp ý vào các chương trình, dự án, dự thảo luật, pháp lệnh, nghị định quan trọng đã được tổ chức theo Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh của Quốc hội và theo đề nghị của các cơ quan chủ trì soạn thảo. Qua đó, Hội Luật gia VN đã tham gia hàng chục ngàn lượt ý kiến góp ý có chất lượng vào các dự án luật và các văn bản qui phạm pháp luật.

Hội Luật gia VN được giao thực hiện “thí điểm khảo sát lấy ý kiến đánh giá của người dân đối với hoạt động tư pháp” và các Đề án “Phát huy vai trò của Hội Luật gia các cấp trong công tác PBGDPL, giai đoạn 2022-2027”; Đề án “Tổng kết, đánh giá chế định bào chữa viên nhân dân để có giải pháp trong thời gian tới”…

Đáng chú ý nhất là việc Hội Luật gia VN được giao chủ trì xây dựng dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Đây là lần thứ ba (trước đó là dự án Luật Trọng tài thương mại 2010 và dự án Luật Trưng cầu ý dân 2015), Hội Luật gia VN là một trong số rất ít tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp nhưng được Quốc hội tín nhiệm giao chủ trì soạn thảo dự án Luật. Với thế mạnh của mình, Trung ương Hội sẽ hoàn thành có chất lượng, đảm bảo đúng tiến độ.

Đối với những dự án luật lớn, có tác động sâu rộng đến xã hội như Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2024, Trung ương Hội đã tham gia theo yêu cầu của Hội đồng Lý luận Trung ương, bằng Báo cáo tư vấn (được nghiên cứu công phu): “Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới ở Việt Nam”. Hội cũng phối hợp với một số Bộ, ngành tổ chức một số Hội thảo lớn như Hội thảo: “Nâng cao hiệu quả thi hành Luật Đất đai: Chống lãng phí và vi phạm trong sử dụng đất công”.

Trong lĩnh vực cải cách tư pháp, Hội Luật gia VN đã tham gia tích cực và có hiệu quả, hoàn thành tốt vai trò là thành viên Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương. Tích cực đóng góp ý kiến vào các Báo cáo, đề án có chất lượng, như: “Đánh giá toàn diện công tác xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện pháp luật, các mục tiêu cải cách tư pháp giai đoạn 2011- 2020 và mục tiêu, nhiệm vụ của giai đoạn 2021 - 2030”; “Bảo đảm thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp”. Thực hiện “thí điểm khảo sát lấy ý kiến đánh giá của người dân đối với hoạt động tư pháp”. Đối với Đề án “Tổng kết, đánh giá chế định bào chữa viên nhân dân để có giải pháp trong thời gian tới”, Hội LGVN đang nghiên cứu đánh giá quá trình thực hiện cũng như làm rõ vấn đề lý luận cơ bản về sự tham gia của nhân dân vào hoạt động tư pháp, trong đó có sự tham gia của bào chữa viên nhân dân trong tố tụng hình sự …

Đồng thời với việc tham gia xây dựng các dự án luật, văn bản quy phạm pháp luật, đề án về tổ chức, bộ máy cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp, trong nhiệm kỳ qua, lãnh đạo Hội LGVN đã tích cực tham gia với trách nhiệm cao là thành viên Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia; Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao và thành viên Hội đồng tư vấn án lệ; Tham dự đầy đủ và có ý kiến đối với toàn bộ các hồ sơ án lệ thuộc chương trình công tác của Hội đồng tư vấn án lệ.

Hội LGVN tích cực tham gia góp ý kiến xây dựng các dự án luật, văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, đề án, báo cáo về tư pháp, cải cách tư pháp: Đề án “Đổi mới tổ chức bộ máy tòa án nhân dân tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình hình mới”; dự thảo Đề án “Các giải pháp tăng cường kiểm soát và nâng cao chất lượng đào tạo luật ”;  dự thảo Đề án “Tăng cường vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng”; Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn 2024-2030”; …..Nhiều ý kiến góp ý của Hội đã được tiếp thu, thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật, góp phần hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tư pháp.

Trong 5 năm gần đây, cùng với Trung ương Hội, các cấp Hội ở các địa phương trong toàn quốc, đã tham gia hơn 66.600 lượt ý kiến góp ý vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương và địa phương; tham gia kiểm tra, rà soát hơn 49.700 văn bản và đề nghị hủy bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung sau kiểm tra, rà soát gần 1.500 văn bản. HLG ở cơ sở đã trở thành chỗ dựa tin cậy của cấp ủy và chính quyền trong công tác xây dựng văn bản pháp luật và văn bản quản lý của chính quyền các cấp. Hoạt động phản biện đã “góp phần tạo dựng một kênh thông tin khách quan, có ý nghĩa phản biện và có giá trị tham khảo” với hơn 2.400 ý kiến phản biện vào các dự thảo văn bản, chương trình, đề án, kế hoạch ở địa phương…

Trong nhiệm kỳ 2019 - 2024, các cấp HLG ở tỉnh và thành phố đã tham gia hơn 12.700 đoàn giám sát ở địa phương, tập trung vào các lĩnh vực như phòng, chống tham nhũng, lãng phí và các vấn đề liên quan đến đất đai; tham gia tư vấn giải quyết hơn 42.300 vụ việc khiếu nại. Điều này cho thấy vai trò của Hội LGVN không chỉ dừng lại ở việc giám sát chung chung, mà còn trực tiếp tham gia hỗ trợ người dân trong các vụ việc cụ thể, góp phần bảo đảm công lý từ cơ sở. 

Thông qua việc giám sát và tư vấn giải quyết khiếu nại, các luật gia của các cấp Hội có điều kiện trực tiếp đối thoại, tiếp nhận, lắng nghe phản ánh, kiến nghị, giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc về pháp lý của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, địa phương. Đây cũng là một trong những nội dung mà Nghị quyết 66 nhấn mạnh (tại điểm 3 Mục III), góp phần tạo đột phá trong công tác thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực và hiệu quả; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng và thi hành pháp luật.

Trong hoạt động “truyền thông chính sách, phổ biến, giáo dục pháp luật”, 5 năm gần đây, các cấp Hội đã phối hợp các cơ quan, tổ chức ở địa phương và trực tiếp thực hiện được gần 795.200 cuộc tuyên truyền, PBGDPL cho gần 5.000.000 lượt đối tượng thụ hưởng. Đáng kể nhất là từ đầu năm 2024 đến nay, công tác tuyên truyền, PBGDPL của các cấp Hội được tăng cường và phát huy mạnh mẽ, nhờ sự kích hoạt từ Đề án “Phát huy vai trò của Hội Luật gia các cấp trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2024 - 2030” theo Quyết định phê duyệt số 129/QĐ-TTg ngày 30/01/2024 của Thủ tướng Chính phủ…

Hội LGVN luôn chú trọng và triển khai tích cực các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. Đây là một trong 7 nhiệm vụ giải pháp mà Nghị quyết 66 đặt ra. Mặc dù quy mô còn khiêm tốn, nhưng bước đầu đã mang lại kết quả thiết thực. Cụ thể, Hội đã phối hợp với các đối tác quốc tế tổ chức nhiều hội thảo quan trọng như: Hội  thảo về tính pháp lý liên quan đến chủ quyền biển đảo ( Biển Đông) ; Hội thảo về vai trò của tổ chức tư vấn pháp luật trong hỗ trợ nạn nhân bị mua bán; Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm của CHLB Đức về trọng tài thương mại (10-11/12/2024). Các hội thảo này đã cung cấp cho đại biểu và cơ quan hữu quan nhiều thông tin, kinh nghiệm quý phục vụ trực tiếp cho quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong nước.

Song song với đó, Hội cũng đã cử cán bộ tham gia nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế. Nhìn chung, các hoạt động này đã phần nào góp phần nâng cao vị thế, uy tín và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế của Hội, khẳng định vai trò là một tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp tích cực, chủ động trong tiến trình hội nhập quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp.

3-1758789785.png

Quang cảnh Hội nghị tập huấn toàn quốc triển khai Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới do Hội Luật gia VN tổ chức ngày 18/9/2025 tại Đà Nẵng

Mới đây ngày 30/4/2025 , Trung ương ban hành Nghị quyết 66-NQ/TW, nhận thức sâu sắc về vai trò của mình trong công cuộc đổi mới theo tinh thần Nghị quyết 66, Hội LGVN và giới luật gia đã có nhiều hoạt động tích cực, thể hiện sự chuyển hóa từ tư tưởng thành hành động cụ thể. Đặc biệt, Đảng ủy TW Hội Luật gia VN đã thành lập Ban Chỉ đạo và ban hành Kế hoạch số 42- KH/ĐU-XDPL về việc thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30 tháng 4 năm 2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, nhằm quán triệt toàn diện, sâu sắc tinh thần và nội dung Nghị quyết 66 đến tất cả các cấp ủy, chi bộ, cán bộ đảng viên và các cấp Hội từ Trung ương đến cơ sở.

Đảng ủy TW Hội Luật gia VN xác định rõ một số yêu cầu trong triển khai thực hiện thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW: (i) Phải gắn liền với thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước PQXHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển KHCN, ĐMST và CĐSQG, Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Chỉ thị số 14-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội LGVN trong tình hình mới; Nghị quyết số 140/NQ-CP của Chính phủ Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW; Các văn bản chỉ đạo của Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương ;  và (ii) Việc thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW phải trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn thể các cấp Hội nhằm triển khai có hiệu quả trong thực tế các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết; (iii) Phân công trách nhiệm rõ ràng; lộ trình triển khai cụ thể và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và điều kiện thực tế  của Hội, bảo đảm nguồn lực cần thiết để thực hiện .

Đồng thời Đảng ủy TW Hội LGVN đề rõ 6 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu (bám sát tinh thần Nghị quyết 66), đó là: (i) Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng ủy đối với công tác xây dựng pháp luật của Hội; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ủy trong công tác tham gia giám sát việc tổ chức thi hành pháp luật, nhấn mạnh việc phát huy vai trò nêu gương, tính tiên phong, tự giác của đội ngũ đảng viên luật gia trong tuân thủ, chấp hành pháp luật; (ii) Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới theo hướng tham gia chặt chẽ vào toàn bộ quy trình xây dựng pháp luật ngay từ khâu định hướng chính sách cho đến khâu soạn thảo văn bản, bảo đảm quy trình lập pháp dân chủ, chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, hiệu quả, khả thi. Chủ động tiếp nhận phản hồi của người dân, doanh nghiệp về những bất cập trong chính sách, pháp luật và kịp thời tổng hợp, đề xuất sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật.

(iii) Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật, tạo đột phá trong thi hành pháp luật, thông qua việc phối hợp với các tổ chức thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tăng cường giám sát việc tổ chức thi hành pháp luật, kịp thời phản ánh ý kiến của người dân, doanh nghiệp về những bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật để kiến nghị sửa đổi, bổ sung  kịp thời văn bản quy phạm pháp luật; (iv) Tăng cường hợp tác quốc tế về pháp luật trong tình hình mới, bằng việc chủ động tăng cường hợp tác, giao lưu pháp lý quốc tế, mở rộng kết nối với giới luật gia, chuyên gia pháp lý quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài; tranh thủ nguồn lực trí tuệ để tìm hiểu các kinh nghiệm xây dựng pháp luật tiên tiến;

(v) Phát triển nguồn nhân lực pháp luật chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Trong đó cần chú trọng xây dựng và thực hiện cơ chế phù hợp để thu hút, trọng dụng đội ngũ luật gia, chuyên gia pháp lý giỏi có trình độ chuyên môn cao, tư duy đổi mới, giàu kinh nghiệm thực tiễn để tham gia hiệu quả vào công tác xây dựng và thi hành pháp luật; (vi) Bố trí nguồn lực tài chính bảo đảm các điều kiện làm việc phù hợp để đổi mới công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Đặc biệt chú trọng vào việc huy động các nguồn lực hợp pháp từ các tổ chức quốc tế, tổ chức xã  hội, doanh nghiệp đồng hành trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật…

Để thực hiện có hiệu quả Kế hoạch 42, Đảng ủy TW Hội Luật gia VN đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 66. Ủy ban Kiểm tra của Đảng ủy xây dựng các nhiệm vụ nội dung thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW và Kế hoạch 42 vào kế hoạch kiểm tra, giám sát hằng năm.

Đến nay, Kế hoạch 42 đã trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, lan tỏa trong toàn thể các cấp Hội từ Trung ương đến cơ sở, tạo ra một động lực mới, khí thế mới trong giới luật gia cả nước về việc tham gia đóng góp nhằm sớm đưa nội dung và tinh thần mà Nghị quyết 66 vào cuộc sống…

Trước mắt, Hội sẽ tập trung tổ chức một số Hội nghị chuyên đề tuyên truyền sâu rộng về những điểm đột phá, tinh thần chủ đạo của Nghị quyết 66 tới toàn thể ( hơn 100 nghìn ) hội viên Luật gia trong cả nước

Đặc biệt, ngày trong tháng 9, Thường trực và Thường vụ Đảng ủy TW Hội đã chỉ đạo Viện Khoa học Pháp lý và Kinh doanh quốc tế (Viện IBLA) và Tạp chí Pháp lý tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Đưa nghị quyết 66-NQ/TW vào cuộc sống - Yêu cầu, cơ chế và giải pháp thực thi”. Hội thảo sẽ góp phần hiện thực hóa Kế hoạch 42 của Đảng uỷ Trung ương Hội Luật gia VN. Ban Thường vụ Đảng uỷ và Thường trực Trung ương Hội Luật gia VN kỳ vọng sự thành công của Hội thảo sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa và góp phần thực hiện có hiệu quả vai trò của Hội LGVN và giới luật gia tham gia thực hiện Nghị quyết 66-NQ/TW đi vào cuộc sống.

Đồng thời, Hội sẽ chủ trì xây dựng thành công, đảm bảo chất lượng đúng tiến độ dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Trong đó, có nhiều đề xuất mới đáp ứng được yêu cầu hội nhập trong kỷ nguyên mới, như: Mở rộng phạm vi giải quyết tranh chấp của TTTM, thủ tục tố tụng TTTM; Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong các thủ tục tố tụng trọng tài; Nâng cao năng lực của các Trung tâm trọng tài, đội ngũ trọng tài viên đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp đầu tư, kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội nhập quốc tế... Nếu được Quốc hội thông qua, Luật TTTM năm 2010 được sửa đổi, bổ sung sẽ là bệ đỡ cho doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu thực tiễn giải quyết tranh chấp đầu tư, kinh doanh, thương mại phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam và thông lệ quốc tế về TTTM… 

4-1758789785.jpg

Các đại biểu, nhà khoa học, chuyên gia pháp lý chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo khoa học “Đưa Nghị quyết 66-NQ/TW vào cuộc sống: Yêu cầu, cơ chế và giải pháp thực thi” (Hội thảo do Viện IBLA và Tạp chí Pháp lý tổ chức)

Phần IV

Thách thức và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện Nghị quyết 66

Để phát huy tối đa vai trò của Hội Luật gia và giới luật gia, cần nhìn thẳng vào những hạn chế, thách thức đang tồn tại và đề xuất các giải pháp mang tính chiến lược.

1. Những hạn chế và thách thức

Nghị quyết 66 đánh dấu một bước đột phá chiến lược, đặt ra yêu cầu cao về một hệ thống pháp luật mang tính kiến tạo phát triển, đòi hỏi sự đầu tư đồng bộ về con người, công nghệ và thể chế. Trong bối cảnh đó, HLGVN, với vị thế là tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, nơi qui tụ hơn 100.000 hội viên luật gia cả nước, những người có kiến thức pháp luật và kinh nghiệm hoạt động, được kỳ vọng trở thành một lực lượng nòng cốt góp phần đưa Nghị quyết 66-NQ/TW vào cuộc sống. Tuy nhiên, việc hiện thực hóa vai trò này đang gặp phải những khó khăn nhất định.

Một trong những thách thức lớn nhất đối với HLG trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết 66 là sự chuyển mình của công tác Hội trong tư duy và phương thức hoạt động. Nghị quyết 66 định hướng pháp luật “kiến tạo phát triển” và “giải phóng nguồn lực”. Điều này đòi hỏi Hội Luật gia VN cần phải nâng cao chất lượng phản biện, chuyển từ tư duy “kiểm soát” sang tư duy “kiến tạo” để đưa ra các khuyến nghị mang tính chiến lược hơn. Cụ thể hơn, phải đánh giá xem một dự thảo luật có thực sự “mở đường cho kiến tạo phát triển” hay không, có “giải phóng nguồn lực” hay không… Thế nhưng, các quy định về cơ chế phản biện xã hội (Điều lệ Hội quy định nhiệm vụ này chỉ thực hiện “theo đề nghị của các cơ quan nhà nước”) còn mang tính chất phụ thuộc, chưa đủ để Hội Luật gia VN tham gia một cách thực chất. Sự thiếu một cơ chế rõ ràng, chặt chẽ và độc lập cho hoạt động phản biện xã hội phần nào làm giảm đi tính chủ động của Hội Luật gia VN.

Thực trạng hoạt động giám sát của Hội Luật gia VN hiện chủ yếu vẫn mang tính thủ công và thiếu các công cụ để thu thập, tổng hợp, và phân tích dữ liệu về tình trạng thi hành pháp luật trên diện rộng. Trong khi đó Nghị quyết 66 nhấn mạnh việc chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo, từ hoạt động phản ứng sang chủ động, coi trọng việc ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn để nâng cao chất lượng xây dựng và thi hành pháp luật. Việc thiếu một nền tảng số hóa cho phép người dân và hội viên báo cáo, phản ánh các vấn đề pháp lý một cách tập trung sẽ làm giảm khả năng của Hội trong việc nắm bắt các vấn đề phát sinh từ thực tiễn. Điều này yêu cầu Hội Luật gia VN phải vượt ra khỏi các phương thức làm việc truyền thống, hướng tới việc sử dụng các công cụ kỹ thuật số để phân tích tác động chính sách và giám sát việc tuân thủ pháp luật một cách liên tục…

Nghị quyết 66 đã xác định một chủ trương quan trọng: Nhà nước bảo đảm và ưu tiên nguồn lực để đầu tư cho công tác xây dựng và thi hành pháp luật; có chế độ, chính sách đặc thù, vượt trội cho công tác nghiên cứu chiến lược, chính sách, xây dựng pháp luật và đội ngũ nhân lực thực hiện. Điều này có nghĩa đầu tư cho pháp luật là đầu tư cho nền tảng phát triển quốc gia và sự thiếu hụt về tài chính là một vấn đề đã được nhận diện. Tuy nhiên, trên thực tế, kinh phí cho công tác này còn “khiêm tốn” so với tổng chi ngân sách nhà nước. Sự thiếu hụt nguồn lực tài chính ở cấp độ vĩ mô tác động trực tiếp đến khả năng của Hội Luật gia VN trong việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên sâu.

Vị thế của Hội Luật gia VN trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW là rất đặc biệt. Hội đứng ở giao điểm của ý chí chính trị, yêu cầu xã hội, và chuyên môn pháp lý. Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, nhưng vai trò của Hội vẫn cần những “đòn bẩy” cơ chế để bứt phá hơn nữa, đóng góp nhiều hơn nữa cho công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Để hoàn thành tốt sứ mệnh của mình, Hội cần phải chuyển mình, đổi mới một cách căn bản để có thể vượt qua những thách thức hiện tại. Tính hiệu quả trong hoạt động của Hội Luật gia VN trong việc thực hiện các nội dung Nghị quyết 66 sẽ không chỉ là sự khẳng định vị thế của Hội mà còn là một chỉ dấu quan trọng cho cam kết của Việt Nam trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền hiện đại, minh bạch và lấy người dân làm trung tâm.

2. Đề xuất các kiến nghị chiến lược

Việc thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra cả cơ hội và thách thức to lớn đối với Hội Luật gia VN. Với vị thế là một tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp quan trọng, Hội Luật gia VN có tiềm năng to lớn để trở thành một lực lượng nòng cốt trong công cuộc đổi mới xây dựng và thi hành pháp luật. Tuy nhiên, như phân tích ở trên, việc hiện thực hóa vai trò này đang gặp những khó khăn, hạn chế. Để Hội Luật gia VN và giới luật gia thực sự phát huy vai trò nòng cốt, bên cạnh sự đổi mới tự thân của Hội, rất cần có sự quan tâm hỗ trợ từ nhiều phía.

1. Đối với Đảng và Nhà nước: 

Có các quy định về cơ chế pháp lý rõ ràng, minh bạch cho hoạt động giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức thành viên Mặt trận Tổ quốc, trong đó có Hội Luật gia. Cụ thể  có quy định về trách nhiệm tiếp thu, giải trình công khai và hệ thống đối với các ý kiến phản biện của các cơ quan soạn thảo, đảm bảo tính thực chất và hiệu quả của việc tham vấn.Thay thế mối quan hệ bị động bằng một cơ chế phối hợp chặt chẽ, có kế hoạch và mục tiêu rõ ràng ngay từ giai đoạn đầu của quy trình lập pháp.

Thứ hai, để tổng hợp và phát huy được đông đảo các ý kiến của nhân dân tham gia xây dựng pháp luật, cùng với việc thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền 2 cấp, cần tạo điều kiện cho phép Hội luật gia VN thành lập Hội luật gia cấp xã để HLGVN tăng cường hoạt động về cơ sở, trong đó có hoạt động tham gia xây dựng thể chế, chính sách, pháp luật

 Thứ ba, cần đầu tư xứng đáng về nguồn lực và có chế độ, chính sách đặc thù, vượt trội cho Hội Luật gia và đội ngũ chuyên gia pháp lý. Điều này sẽ giúp Hội có đủ tiềm lực để thực hiện các đề tài nghiên cứu độc lập, nâng cao chất lượng phản biện và trở thành một đối tác tư vấn chiến lược thực sự cho các cơ quan lập pháp và hành pháp.

Thứ tư, đề xuất thực hiện chuyển giao các dịch vụ công trong lĩnh vực pháp lý phù hợp với năng lực và thế mạnh của Hội

5-1758789785.jpg

Các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và các đảng viên sinh hoạt tại Đảng bộ TW Hội Luật gia VN tại Hội nghị trực tuyến quán triệt, triển khai Nghị quyết Trung ương 66 và 68 sáng 18/5/2025

2. Đối với Hội Luật gia Việt Nam:

(i) Cần đổi mới phương thức hoạt động, từ việc tổ chức các hội thảo đơn thuần sang sử dụng các phương pháp nghiên cứu, khảo sát xã hội học hiện đại để thu thập ý kiến rộng rãi từ người dân và chuyên gia. Điều này sẽ nâng cao tính thuyết phục và cơ sở khoa học của các ý kiến phản biện.Tăng cường sự chủ động, thay vì chỉ chờ đợi các dự thảo được gửi đến, Hội cần chủ động hơn nữa trong việc nghiên cứu, dự báo và đề xuất các vấn đề pháp lý cần được ưu tiên giải quyết trước cả khi các dự án luật được hình thành. Điều này sẽ giúp Hội thực sự đóng vai trò “kiến tạo” theo đúng tinh thần của Nghị quyết 66.

(ii) Chủ động thúc đẩy cơ chế phản biện, giám sát và tham gia hoàn thiện thể chế (phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 66): Thay vì chờ giao nhiệm vụ, Hội LGVN cần chủ động đề xuất và tham gia từ sớm vào quá trình xây dựng các đề án, chiến lược, chương trình cải cách tư pháp và xây dựng pháp luật. Chủ động nghiên cứu đề xuất cơ chế tham gia có tính thể chế hóa, chính danh của Hội trong công tác giám sát việc thi hành pháp luật và hoạt động tư pháp; đề xuất cơ chế để Hội tham gia thực chất, có hiệu quả vào công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, giới thiệu hội thẩm nhân dân, hòa giải viên, trọng tài viên và một số chức danh tư pháp khác; tham gia giải quyết tranh chấp bằng các phương thức thay thế (hòa giải cơ sở các các thiết chế hòa giải khác, đối thoại, trọng tài) theo quy định pháp luật.

(iii) Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý với nhiều hình thức phong phú, đa dạng hơn, như: Triển khai hiệu quả Đề án “Phát huy vai trò của Hội Luật gia các cấp trong phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2024-2030”; Tham gia phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm tham nhũng theo quy định và yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền; Phát triển mạng lưới tư vấn viên, luật gia trẻ tình nguyện; Nghiên cứu xây dựng các trung tâm pháp luật cộng đồng, hướng về cơ sở (cộng đồng dân cư) gắn với chuyển đổi số; Đề xuất cơ chế chính thức về vai trò Hội LGVN tham gia tư vấn công tác đặc xá, tái hoà nhập cộng đồng đối với các phạm nhân theo quy định của pháp luật

(iv) Tăng cường hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp, nhằm tăng cường nguồn lực cho công tác nghiên cứu, phát triển thông qua việc chủ động tham gia các diễn đàn pháp luật quốc tế, mạng lưới luật gia toàn cầu. Nghiên cứu, tham khảo mô hình tổ chức Hội Luật gia tiến bộ của các nước phát triển, phục vụ quá trình cải cách thể chế tại Việt Nam. Phát huy mạnh mẽ vai trò thành viên của Hội Luật gia dân chủ quốc tế (IADL), Hội Luật gia Châu Á-Thái Bình Dương (COLAP), Hiệp hội luật ASEAN (ALA). Tăng cường hợp tác song phương với 1l tổ chức pháp luật quốc gia mà Hội đã ký kết thỏa thuận hợp tác; tiếp tục mở rộng hợp tác pháp luật với các đối tác khác nhằm triển khai đa dạng, thực chất các hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, đặc biệt là bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam

(v) Ứng dụng công nghệ số vào hoạt động giám sát: HLGVN cần triển khai một dự án thí điểm về giám sát số hóa. Xây dựng một nền tảng trực tuyến để hội viên và người dân có thể báo cáo, phản ánh các hành vi vi phạm pháp luật. Dữ liệu từ nền tảng này có thể được HLGVN sử dụng để phân tích, xác định các điểm nóng và các vấn đề có tính hệ thống trong việc thi hành pháp luật, chuyển từ giám sát mang tính vật lý, cục bộ sang giám sát số, liên tục, trên diện rộng. Kết hợp với chuyên môn hóa trong giám sát, thay vì giám sát dàn trải nên tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực trọng điểm và phức tạp có tác động lớn đến xã hội, như quản lý đất đai và phòng, chống tham nhũng... Việc chuyên môn hóa sẽ giúp Hội sử dụng hiệu quả nguồn lực hạn chế và tạo ra những báo cáo giám sát có chiều sâu, đáng tin cậy.

(vi) Ưu tiên đầu tư nguồn lực cho các đơn vị trực thuộc, gồm: Viện Khoa học pháp lý và Kinh doanh quốc tế, Viện Nghiên cứu pháp luật và kinh tế ASEAN và các Trung tâm tư vấn pháp luật. Đặc biệt là đối với các Viện Nghiên cứu khoa học, cần phải xác định đó là lực lượng quan trọng để giúp Hội Luật gia VN tham gia có chất lượng vào các dự án luật bằng các luận cứ nghiên cứu khoa học và thực tiễn vững chắc, đóng góp tích cực và hiệu quả vào công cuộc đổi mới cải cách hệ thống pháp luật. Đối với các Trung tâm tư vấn pháp luật trong toàn hệ thống Hội, cần xác định đó chính là tiềm năng để Hội Luật gia VN phát huy có hiệu quả việc cung cấp các "dịch vụ pháp lý, hỗ trợ pháp lý, trợ giúp pháp lý cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận pháp luật", phù hợp với tinh thần Nghị quyết 66 đặt ra.

(vii) Nghị quyết 66 yêu cầu thực hiện chính sách đặc thù, vượt trội, áp dụng chế độ thù lao, thuê khoán tương xứng để thu hút, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia các nhiệm vụ, hoạt động xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật. Đây là cơ cở pháp lý để Trung ương Hội vận dụng xây dựng và kiện toàn đội ngũ nhân lực đảm bảo có hiệu quả. Theo đó cần kiện toàn cơ cấu tổ chức và nguồn nhân lực của Hội (từ Trung ương Hội đến các cấp Hội) theo hướng chuyên nghiệp hơn. Trung ương Hội cũng cần nghiên cứu xây dựng Bộ quy tắc đạo đức rõ ràng và nghiêm ngặt, được phổ biến rộng rãi và có cơ chế giám sát việc tuân thủ để đảm bảo các luật gia hoạt động một cách chuyên nghiệp và liêm chính. Đẩy mạnh chuyển đổi số, tăng cường tổ chức các khóa học, hội thảo chuyên đề trực tuyến qua các nền tảng video conference và e-learning, cho phép cán bộ ở các cấp cơ sở dễ dàng tiếp cận các kiến thức, kỹ năng mới về tư vấn, phản biện, kỹ năng phổ biến giáo dục pháp luật.

(viii) Nhân rộng các mô hình hoạt động hiệu quả. Đồng thời xây dựng các mô hình hoạt động chuyên nghiệp hơn, có khả năng tự chủ tài chính, để thu hút các nguồn lực xã hội khác.

Kết luận

Nhận thức đúng đắn là điểm khởi đầu, nhưng hành động quyết liệt mới là yếu tố quyết định sự thành bại. Để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 66, Hội Luật gia VN và đội ngũ Luật gia cần quyết tâm hành động, đổi mới mạnh mẽ, tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của mình cho công cuộc phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đây không chỉ là trách nhiệm mà còn là vinh dự của những người làm công tác pháp luật, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Bằng sự nhiệt huyết, tinh thần trách nhiệm và trí tuệ của mình, tôi tin rằng các luật gia sẽ là những người tiên phong, hiện thực hoá những chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng thành hiện thực, xây dựng đất nước phát triển vững mạnh trên nền tảng pháp luật. 

------------------------

Tài liệu tham khảo:

1.https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-dang/doi-moi-toan-dien-ve-cach-xay-dung-va-thuc-thi-phap-luat-trong-ky-nguyen-moi-4284;

2.https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-66-nqtw-ngay-3042025-cua-bo-chinh-tri-ve-doi-moi-cong-tac-xay-dung-va-thi-hanh-phap-luat-dap-ung-yeu-11561;

3.https://vnpa.moh.gov.vn/tin-tong-hop/nghi-quyet-so-66-nqtw-ngay-3042025-cua-bo-chinh-tri-noi-dung-trong-tam-cot-loi-va-ke-hoach-hanh-dong;

4.https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-dang/doi-moi-toan-dien-ve-cach-xay-dung-va-thuc-thi-phap-luat-trong-ky-nguyen-moi-4284;

5.https://baochinhphu.vn/nghi-quyet-so-66-nhieu-co-che-dot-pha-trong-cong-tac-thi-hanh-phap-luat-102250506112658359.htm;

6.https://chinhsachcuocsong.vnanet.vn/nghi-quyet-so-66-nq-tw-xay-dung-he-thong-phap-luat-hien-dai-vi-nhan-dan-phuc-vu/61561.html;

7.https://hvctcand.bocongan.gov.vn/nha-nuoc-va-phap-luat/phat-huy-vai-tro-trach-nhiem-cua-luat-gia-luat-su-trong-qua-trinh-xay-dung-va-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-5637;

8.https://vov.vn/chinh-tri/hoi-luat-gia-co-dong-gop-lon-vao-chien-luoc-cai-cach-tu-phap-130646.vov;

9.https://baotintuc.vn/thoi-su/hoi-luat-gia-viet-nam-tich-cuc-tham-gia-dong-gop-y-kien-sua-doi-hien-phap-20250530085218254.htm;

TS. Trần Công Phàn (Phó Chủ tịch thường trực Hội Luật gia Việt Nam)

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin