Ngành dịch vụ hậu cầu( Logistics) là mạch máu của nền kinh tế, quyết định đến tính cạnh tranh của từng quốc gia, của từng doanh nghiệp. Một ngành logistics vững mạnh là chìa khóa để Việt Nam tham gia tích cực vào chuỗi giá trị toàn cầu. Dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và đại dịch toàn cầu, ngành dịch vụ logistics đang có những thay đổi không nhỏ. Vậy, đâu là cơ hội, thách thức và tiềm năng đối với ngành logistics tại Việt Nam?
Tiềm năng của ngành logistics tại Việt Nam
Ngành logistics bao gồm một loạt hoạt động như vận tải, kho bãi, môi giới, chuyển phát, vận hành cảng và cả quản lý thông tin và dữ liệu, đóng vai trò làm dịch vụ hỗ trợ dòng chảy hàng hóa trong và xuyên biên giới quốc gia. Logistics được coi là "mạch máu" của nền kinh tế, quyết định đến tính cạnh tranh của từng quốc gia, của từng doanh nghiệp. Một ngành logistics vững mạnh là chìa khóa để Việt Nam tham gia tích cực vào chuỗi giá trị toàn cầu. Dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và đại dịch COVID-19 toàn cầu, ngành dịch vụ logistics đang có những thay đổi không nhỏ, việc chuyển đổi số, ứng dụng các phần mềm tiên tiến trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp trong ngành logistics đã giúp giảm thiểu các chi phí vận hành, có thêm khách hàng và đạt lợi nhuận tối đa vượt trội so với trước khi chuyển đổi số.
Phó Cục trưởng Cục xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) Trần Thanh Hải cho rằng trong những năm gần đây, thương mại quốc tế không ngừng phát triển nhờ xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế giữa các quốc gia ngày càng sâu và rộng, mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng và nền kinh tế nước nhà nói chung. Trong đó đặc biệt phải kể đến logistics – một lĩnh vực then chốt, đóng một vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế.
Tại các nước phát triển, doanh nghiệp ngày càng có xu hướng thuê ngoài nguồn nhân lực và vật chất tại các thị trường mới nổi như Đông Nam Á để tiết kiệm chi phí hiệu quả trong sản xuất. Trong đó, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường mới nổi hấp dẫn nhất với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, chi phí nguyên vật liệu rẻ và mức lương thấp hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, vị trí địa lý của Việt Nam cũng là một mắt xích quan trọng giữa các khu vực Đông Nam Á, Đông Nam Á và là đường liên kết biển quan trọng với thế giới.
Hơn nữa, ngành logistics Việt Nam cho thấy một ngành cạnh tranh và có triển vọng bùng nổ trong tương lai với tỷ trọng thấp ở mức 7,40%. Theo dữ liệu báo cáo của CRIF D&B Việt Nam năm 2019, về xu hướng tăng trưởng doanh thu, ngành logistics Việt Nam có xu hướng tăng trưởng tích cực và liên tục, trong đó doanh thu bán hàng tăng 6,8% từ 305.825 triệu đồng năm 2017 lên 325.294 triệu đồng năm 2018 và lên 332.634 triệu đồng vào năm 2019, tỷ suất lợi nhuận gộp cũng tăng từ 12,23% năm 2017 lên 12,46% năm 2018, lên mức cao nhất 12,68% năm 2019.
Nói về cơ hội và thách thức trong việc đầu tư, phát triển của ngành logistics hiện nay, ông Lê Duy Hiệp cho rằng, Ngành logistics có vị trí quan trọng trong chuỗi cung ứng, đóng vai trò quan trọng trong dịch vụ thương mại, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh COVID-19, logistics là chìa khóa giúp cho việc giao hàng online khi bị giãn cách xã hội.
Việt Nam hiện có khoảng 4.000-4.500 doanh nghiệp cung cấp logistics trực tiếp và có đến hơn 30.000 công ty liên quan, trong đó có khoảng hơn 90% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.Theo nghiên cứu của hiệp hội, tại Việt Nam chi phí cho logistics hiện chiếm khoảng 16,8%-17% GDP tương đương về quy mô thì khoảng 42 tỉ USD, đóng góp khoảng 4% vào GDP. Tuy nhiên, chi phí logistics tại Việt Nam còn cao so với các nước phát triển xung quanh.
Tuy nhiên, năng lực vận tải quốc tế của các ngành logictics Việt còn rất yếu. Hiện nay vẫn chưa có công ty vận tải biển nào có thể đảm đương được việc chuyên chở hàng hóa Việt ra thị trường quốc tế. Trong khi đó, việc phát triển logictics chuyên dụng bằng hàng không, máy bay chuyên vận chuyển hàng hóa còn yếu. “Nguyên nhân là đường biển nước ta khá dài, chi phí đường bộ cao và có nhiều chi phí khác. Chúng tôi đang cố gắng để kéo giảm chi phí xuống vào khoảng 14-15% GDP” - ông Hiệp nói.
Giải pháp phát triển ngành logistics
Mặc dù đánh giá logistics của Việt Nam đã có nhiều cải thiện, từ vị trí thứ 64 cách đây 2 năm, Việt Nam đã tăng lên vị trí thứ 39 trên toàn cầu trong bảng xếp hạng chỉ số hiệu suất dịch vụ logistics (LPI), đứng trên các nền kinh tế có quy mô lớn hơn so với một số nước cùng khu vực như: Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, tuy nhiên thương mại quốc tế ngày càng trở nên phân tán thông qua các chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển dịch vụ logistics vững mạnh là điều quan trọng hơn bao giờ hết. Một gián đoạn nhỏ trong chuỗi cung ứng có thể lan rộng nhanh chóng tới các nước và khu vực trên thế giới. Để ngành logistics Việt Nam có thể phát triển trong thời gian tới, ông Shige Sakaki cho rằng với những nước đang phát triển như Việt Nam thì việc đưa ngành logistics phát triển đúng hướng sẽ đồng nghĩa với việc cải thiện cơ sở hạ tầng, hải quan, kỹ năng và luật lệ.
Chia sẻ về những vấn đề dài hạn cần cải thiện để nâng cao chỉ số năng lực quốc gia về logistics của Việt Nam, ông Shighe Sakaki lưu ý: “Chúng ta có thể so sánh chỉ số và hiệu quả thực tế của Việt Nam hiện nay. Cần xác định các khu vực cần tăng cường kết nối như về cảng biển, cảng hàng không ở các thành phố lớn” -.
Còn theo TS Vũ Tiến Lộc, logistics là mạch máu của nền kinh tế, quyết định đến tính cạnh tranh của từng quốc gia, của từng doanh nghiệp. Một ngành logistics vững mạnh là chìa khóa để Việt Nam tham gia tích cực vào chuỗi giá trị toàn cầu. Dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và đại dịch COVID-19 trên toàn cầu, ngành dịch vụ logistics đang có những thay đổi lớn đòi hỏi cả thế giới phải thay đổi để thích hợp trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, logistics ở Việt Nam vẫn đang là một “điểm nghẽn” bởi chi phí logistic ở Việt Nam đang ở mức cao nhất khu vực và thế giới.
“Việt Nam cần khắc phục điểm nghẽn này, tạo ra bước đột phá trong phát triển logistic. Có những cơ hội trong phát triển lĩnh vực này, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin và số hóa” - TS Vũ Tiến Lộc nêu ý kiến.
Đồng quan điểm trên, ông Lê Duy Hiệp cho rằng, năng lực vận tải quốc tế của các ngành logictics Việt còn rất yếu. Hiện nay vẫn chưa có công ty vận tải biển nào có thể đảm đương được việc chuyên chở hàng hóa Việt ra thị trường quốc tế. Trong khi đó, việc phát triển logictics chuyên dụng bằng hàng không, máy bay chuyên vận chuyển hàng hóa còn yếu.
Chính phủ đã nhìn thấy rõ “nút thắt” này và đang quan tâm hỗ trợ cho các doanh nghiệp logistics. Về phía mình, các doanh nghiệp cũng nhận rõ việc cần những công nghệ mới để đáp ứng yêu cầu của thương mại điện tử, chuỗi cung ứng lạnh, tự động hóa trong quản trị kho hàng cũng như mảng logistics đô thị cần sự phát triển hơn nữa với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của công nghệ số.
Liên quan đến việc chuyển đổi số đối với các doanh nghiệp logistics vừa qua Chính phủ đã có nhiều chỉ thị, quyết định về chuyển đổi số. Hiện có khoảng 40% doanh nghiệp logistics đã áp dụng chuyển đổi số, khá nhiều doanh nghiệp đã đi đầu như tại cảng Cát Lái đã áp dụng khai quan và các dịch vụ khác hoàn toàn điện tử. Tuy nhiên do doanh nghiệp logistics Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ do đó việc tiếp cận vốn, tài chính còn hạn chế, công nghệ khó lựa chọn do còn hạn chế về nguồn lực.
Ngoài ra, theo Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025, Việt Nam phấn đấu tỷ trọng đóng góp của ngành Dịch vụ logistics vào GDP đạt 8%-10%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 15%-20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50%-60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16%-20% GDP, xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 50 trở lên. Với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một đầu mối logistics của khu vực, trong thời gian tới cần tập trung triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp như: tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics; ban hành các chính sách hỗ trợ thúc đẩy ngành Dịch vụ logistics phát triển; hoàn thiện kết cấu hạ tầng logistics, bằng việc tiếp tục rà soát các quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo tính đồng bộ của hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành Dịch vụ logistics; nâng cao năng lực DN và chất lượng dịch vụ; phát triển thị trường dịch vụ logistics. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho dịch vụ logistics thông qua việc đăng cai, tổ chức các hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế về logistics; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực logistics. Tiếp tục mở rộng kết nối hạ tầng logistics với các nước trong khu vực ASEAN, Đông Bắc Á và các khu vực khác trên thế giới nhằm phát huy tác dụng của vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới và quá cảnh;…
Theo doanhnghiephoinhap.vn
Nguồn bài viết: http://doanhnghiephoinhap.vn/logistics-thong-minh-chia-khoa-de-viet-nam-nang-cao-vi-the-trong-chuoi-cung-ung-toan-cau.html