Tại sao các công ty khởi nghiệp trong nước thất bại ?
Theo thông tin của Viện Chiến lược và Chính sách tài chính của Bộ Tài Chính, hệ sinh thái khởi nghiệp đang phát triển mạnh mẽ với hơn 3.000 doanh nghiệp sáng tạo, hiện đang đứng thứ ba ở khu vực, với 40 cơ sở ươm tạo khởi nghiệp, và có được sự tham gia của nhiều nhà đầu tư quốc tế. Số liệu trên thật ra có chính xác và đạt được kết quả mong muốn hay không, hay chỉ là số liệu “thi đua”, và hiện nay có bao nhiêu startups VN thành công?
Không cần 'lách luật', hoạt động kinh doanh của Nga vẫn diễn ra bình thường dù bị phương Tây trừng phạt, đây là lý do
Các gói trừng phạt của phương Tây nhắm đến các ngân hàng Nga đang cản trở hoạt động kinh doanh của quốc gia này. Song, những nỗ lực đó vẫn gặp hạn chế vì sự phụ thuộc của châu Âu đối với dầu khí của Nga.
Giá xăng dầu thế giới và lạm phát Việt Nam
Trong bối cảnh giá xăng dầu cao và nguy cơ lạm phát gia tăng vẫn là mối quan tâm của nhiều doanh nghiệp và người dân, Tiến sĩ Phạm Công Hiệp (Đại học RMIT) đã đưa ra những phân tích và khuyến nghị cho vấn đề này.
Coi COVID-19 là một bệnh đặc hữu: Chiến lược mới của các nước châu Âu
Khi đại dịch COVID-19 lần đầu tiên được công bố, người Tây Ban Nha được lệnh phải ở nhà hơn ba tháng. Trong nhiều tuần, họ không được phép ra ngoài dù chỉ để tập thể dục. Trẻ em bị cấm đến các sân chơi, và nền kinh tế hầu như ngừng hoạt động.
Sự cần thiết của chuyển giao thành quả nghiên cứu khu vực công sang khu vực tư nhân trong thời đại công nghiệp 4.0 với cơ chế đặc thù của TP HCM
( Pháp lý). Nhu cầu chia sẻ kiến thức giữa các tổ chức nghiên cứu nhà nước và ngành công nghiệp khu vực tư nhân ngày càng trở nên rõ ràng trong những năm gần đây.
Xung đột Nga - Ukraine và những tác động đến kinh tế Việt Nam
Dragon Capital vừa có báo cáo đánh giá tác động của căng thẳng chính trị thế giới đến kinh tế Việt Nam trong bối cảnh xung đột ở Ukraine đã bước sang ngày thứ 5 và các nước phương Tây áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Nga. Theo đó, cuộc xung đột giữa chính phủ Nga và Ukraine sẽ ảnh hưởng đến Việt Nam, đặc biệt trong việc trao đổi thương mại quốc tế khi mà tổng sản lượng xuất khẩu của Nga chiếm tới 1,8% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn thế giới.
Nga bị trừng phạt ảnh hưởng gì tới các dự án tại Việt Nam?
Báo cáo của VNDIRECT RESEARCH vừa phát hành chiều 28.2 cho thấy, Việt Nam chịu tác động nhất định bởi căng thẳng đang nổ ra tại Ukraine và các lệnh trừng phạt mà Nga đang phải hứng chịu.
Những điểm nổi bật trong chính sách cạnh tranh, chống độc quyền của Liên minh Châu Âu và một số gợi mở cho Việt Nam
(Pháp lý) - Ngay từ khi thành lập, chính sách cạnh tranh được coi như một công cụ quan trọng để thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trong Cộng đồng Châu Âu. Trong đó, chống độc quyền và các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, kiểm soát sáp nhập doanh nghiệp, kiểm soát trợ cấp nhà nước… là những điểm nổi bật trong chích sách cạnh tranh của Liên minh Châu Âu. Việc tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền của EU là rất cần thiết để có thể rút ra bài học kinh nghiệm đáng quý trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh và chống độc quyền ở Việt Nam.
Luật cạnh tranh và chống độc quyền của Liên minh Châu Âu
Ngay từ khi thành lập Liên minh Châu Âu (EU), chính sách cạnh tranh được coi như một công cụ quan trọng để thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trong khối.
Theo đó, Luật Cạnh tranh thúc đẩy việc duy trì cạnh tranh trong Liên minh châu Âu thông qua các quy định hành vi hạn chế cạnh tranh của các công ty để bảo đảm rằng họ không tạo ra các tập đoàn thoả thuận hạn chế cạnh tranh và công ty độc quyền mà sẽ gây thiệt hại đến lợi ích của xã hội. Được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiệp ước Rome, các quy định về cạnh tranh tiếp tục được quy định và phát triển trong các hiệp ước sau cũng như trong hệ thống pháp luật châu Âu.
Luật Cạnh tranh của EU yêu cầu chính phủ các quốc gia thành viên không được đặt ra hoặc duy trì các biện pháp nhằm hạn chế một trong ba nguyên tắc tự do cơ bản của liên minh: tự do lưu thông hàng hóa, tự do di chuyển và tự do cung cấp dịch vụ.
Ngoài ra, chính sách cạnh tranh của EU còn kiểm soát chặt chẽ các khoản trợ cấp của nhà nước dành cho các xí nghiệp của mình, để ngăn chặn xu hướng chính phủ các nước thông qua các khoản trợ cấp hay những đặc quyền nào đó bù đắp cho các công ty độc quyền.
Chính sách cạnh tranh được coi như một công cụ quan trọng để thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trong Cộng đồng Châu Âu
Hội đồng châu Âu với vai trò là cơ quan ban hành và giám sát việc thực thi Luật Cạnh tranh, chịu trách nhiệm xử lý những vấn đề liên quan đến luật này cũng như cho phép việc sáp nhập và hợp nhất các công ty, tập đoàn lớn của EU để phát triển tự do thương mại và giảm bớt trợ giá từ chính phủ của các quốc gia thành viên cho các công ty, tập đoàn lớn của nước mình.
Do đó, chính sách cạnh tranh của EU không chỉ tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp và còn điều chỉnh một số hoạt động của các nước thành viên, thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại.
Nội dung chính sách cạnh tranh thể hiện trên nhiều lĩnh vực, như: chính sách chống độc quyền và các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; chính sách kiểm soát sáp nhập doanh nghiệp; chính sách kiểm soát hỗ trợ nhà nước; chính sách thúc đẩy tự do hóa.
Theo các chính sách này, các quy tắc được áp dụng đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động ở thị trường thống nhất mà không quan tâm đến hình thức sở hữu của chúng.
Các quốc gia thành viên có cơ quan thực thi Luật Cạnh tranh của từng nước, còn Ủy ban châu Âu chịu trách nhiệm điều tra các vi phạm chính sách. Ủy ban Châu Âu có quyền lực đặc biệt bao gồm ấn định mức tiền phạt, buộc thay đổi các thỏa thuận sáp nhập và ngăn chặn hoạt động trợ cấp của nhà nước. Tuy nhiên, các quyết định này có thể bị kháng cáo ở Tòa án châu Âu.
Những điểm nổi bật trong chính sách cạnh tranh của Liên minh Châu Âu
Trong các chính sách của Luật cạnh tranh Liên minh Châu Âu, chống độc quyền được coi là nội dung quan trọng nhất trong việc bảo đảm tự do hoạt động và cạnh tranh công bằng của các doanh nghiệp trong một thị phần thống nhất.
Theo đó, Điều 81 Hiệp đinh Rome quy định, nghiêm cấm mọi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, mọi quyết định liên kết doanh nghiệp và mọi dạng thỏa thuận có khả năng ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước thành viên và có mục đích hoặc hậu quả ngăn cản, hạn chế và làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường chung.
Quy định này áp dụng đối với các thỏa thuận theo chiều ngang giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và các thỏa thuận theo chiều dọc giữa các doanh nghiệp thuộc cùng một chuỗi sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
Chống độc quyền được coi là nội dung quan trọng nhất trong các chính sách của Luật cạnh tranh Liên minh Châu Âu ( Trong ảnh : Google đang bị Chính phủ Mỹ cáo buộc đã vận hành đế chế độc quyền trong thị trường tìm kiếm trên Internet, gây hại cho cả người tiêu dùng lẫn các đối thủ cạnh tranh)
Liên quan đến lĩnh vực này, Ủy ban Châu Âu có quyền rất lớn trong việc tiến hành điều tra, bao gồm vào trụ sở của các doanh nghiệp mà không cần báo trước để xem xét các tài liệu nội bộ của doanh nghiệp, có quyền truy cứu bất cứ doanh nghiệp nào vi phạm pháp luật và áp dụng mức phạt tiền lên đến 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp
Bên cạnh đó, Điều 82 Luật Cạnh tranh Liên minh châu Âu quy định việc ngăn cấm lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và đưa ra một danh sách hành vi có thể được xem xét là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường: áp đặt giá mua, giá bán hoặc các điều kiện buôn bán không công bằng, hạn chế sản xuất, thị trường hoặc phát triển kỹ thuật gây tổn hại tới người tiêu dùng, phân biệt mà đẩy đối tác thương mại vào thế bất lợi, áp đặt các điều kiện hợp đồng không phù hợp, dẫn đến bất lợi đối với các đối tác khác trên thị trường có thể được xem như là lạm dụng.
Điều 82 của Hiệp định Rome quy định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh là hành vi bị coi là đi ngược với thị trường chung và bị cấm, trong chừng mực mà thương mại giữa các nước thành viên có khả năng bị ảnh hưởng, hành vi của một hoặc nhiều doanh nghiệp khai thác một cách lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường chung hoặc trên một phần của thị trường chung.
Mặc dù, chính sách cạnh tranh của EU không ngăn cản vị trí thống lĩnh của các doanh nghiệp. Song, nó lại thể hiện rất rõ quan điểm ngăn cản việc lạm dụng vị trí thống lĩnh như các hành vi bán dưới giá thành làm suy yếu đối thủ, hoặc các thỏa thuận cung cấp và phân phối độc quyền để loại bỏ đối thủ cạnh tranh…
Vấn đề sáp nhập doanh nghiệp có thể đưa đến sự ra đời một doanh nghiệp mới có vị trí thống lĩnh. Điều này có thể sẽ làm sai lệch thị trường và không bảo đảm cạnh tranh. Chính vì vậy, hành vi sáp nhập hay hợp nhất doanh nghiệp cũng là đối tượng quan tâm đặc biệt trong chính sách cạnh tranh của EU.
Ngay từ những năm 1990, chính sách cạnh tranh EU đã có bổ sung đối với vấn đề sáp nhập. Theo đó, các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp có tổng doanh thu trên 5 tỷ euro chỉ được sáp nhập khi có sự phê chuẩn đồng ý của Ủy ban.
Một điểm quan trọng nữa, là kiểm soát trợ cấp nhà nước đối với doanh nghiệp. Theo đó, vấn đề này được quy định tại Điều 87 và 88 của Hiệp định Rome. Cụ thể, tất cả các biện pháp trợ cấp do các quốc gia thành viên thực hiện hoặc bằng cách sử dụng các nguồn lực của quốc gia đó dưới bất kỳ hình thức nào, trong chừng mực mà các biện pháp trợ cấp đó liên quan đến các giao dịch giữa các quốc gia thành viên, mà làm sai lệch hoặc đe dọa làm sai lệch cạnh tranh bằng việc hỗ trợ một nhóm doanh nghiệp hoặc một nhóm ngành nghề sản xuất thì bị coi là đi ngược với thị trường chung.
Trợ cấp của nhà nước có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức như miễn hoặc giảm thuế đối với doanh nghiệp. Các quốc gia thành viên có thể trợ cấp cho các doanh nghiệp trong nước nhằm giúp họ đối mặt với cạnh tranh có thể đến từ các quốc gia còn lại.
Điều này sẽ tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh trong Liên minh và sẽ làm sai lệch cạnh tranh. Điều đặc biệt cần quan tâm là các công ty thuộc sở hữu nhà nước được trợ cấp để cạnh tranh với các đối thủ thuộc khu vực tư nhân. Trong các trường hợp này, Ủy ban có quyền ngăn cản hoặc buộc phải thu hồi các khoản trợ cấp.
Cơ quan chịu trách nhiệm chính thi hành chính sách cạnh tranh của EU là Ủy ban châu Âu. Các quốc gia thành viên trao cho Ủy ban vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển một thị trường thống nhất và đấu tranh cho tự do hóa thương mại.
Trong việc thực thi chính sách cạnh tranh, Ủy ban đã thể hiện rất rõ vai trò này thông qua việc ngăn cản hoặc phê chuẩn việc sáp nhập doanh nghiệp hoặc các hoạt động điều tra trợ cấp nhà nước ở các quốc gia thành viên.
Luật cạnh tranh và chống độc quyền của Việt Nam
Tại Việt Nam, Luật Cạnh tranh lần đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/ 2005. Đây được coi là văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh mối quan hệ cạnh tranh giữa các chủ thể hoạt động kinh doanh trên thị trường.
Theo đó, Luật luật cạnh tranh 2004 là hành lang pháp lý quan trọng giúp tạo lập và duy trì môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh, từ đó tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước, phân bổ hiệu quả các nguồn lực xã hội và đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng.
Mặc dù đạt được một số thành tựu nhất định nhưng kết quả hơn 14 năm thi hành Luật Cạnh tranh 2004 không được như kỳ vọng. Số lượng vụ việc được điều tra và xử lý chưa nhiều, chưa phản ánh đúng thực tế cạnh tranh trên thị trường. Một trong số các nguyên nhân chủ yếu là do một số quy định của Luật Cạnh tranh 2004 đã dần bộc lộ những hạn chế và bất cập, gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi.
Thành lập Ủy ban Cạnh tranh quốc gia là điểm đặc biệt nhất trong Luật Cạnh tranh 2018
Nhằm khắc phục những hạn chế và bất cập này, ngày 12/06/2018, Quốc hội đã thông qua Luật Cạnh tranh (sửa đổi, bổ sung) năm 2018 (Luật Cạnh tranh 2018), có hiệu lực thi hành từ 01/07/2019 với nhiều nội dung được sửa đổi, bổ sung so với Luật Cạnh tranh 2004.
Theo đó, Luật cạnh tranh 2018 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng bất cứ một hành vi, một thỏa thuận hay một giao dịch mua bán sáp nhập (M&A) nào xảy ra ở bất cứ nơi đâu, kể cả trong lãnh thổ VN hay ngoài lãnh thổ VN nhưng có khả năng tác động gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể tới thị trường VN thì đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Cạnh tranh 2018.
Ngoài ra, luật đã sửa đổi, bổ sung và làm rõ những hành vi bị cấm đối với cơ quan nhà nước lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp trái pháp luật vào hoạt động cạnh tranh. Đây là điểm mới nhằm nâng cao hiệu quả thực thi của Luật Cạnh tranh một cách toàn diện với tất cả chủ thể, của tổ chức, cá nhân mà thực hiện hành vi được coi là có tác động bất lợi đến cạnh tranh trên thị trường.
Điểm đặc biệt nhất có lẽ chính là luật quy định thành lập Ủy ban Cạnh tranh quốc gia, trên cơ sở tổ chức lại các cơ quan quản lý cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh 2004, bao gồm cơ quan quản lý cạnh tranh (hiện là Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng) và Hội đồng Cạnh tranh…
Một số gợi mở cho việc hoàn thiện pháp luật cạnh tranh của Việt Nam
Có thể thấy, pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền của Việt Nam theo thời gian đã dần được hoàn thiện. Song so với nhiều nước trên thế giới đặc biệt là Cộng đồng Châu Âu, pháp luật cạnh tranh và chống độc quyền của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Trong đó đặc biệt vấn đề chống độc quyền, mô hình tổ chức, hoạt động, thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh…
Do đó trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh với xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và đặc biệt là sự phát triển của công nghệ số, các hình thức kinh doanh nói chung và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói riêng ngày càng phức tạp, đa dạng và khó đoán định.
Xây dựng cơ chế đảm bảo trong hoạt động của Ủy ban Cạnh tranh quốc gia chỉ tuân theo pháp luật và hạn chế sự tác động của các cơ quan nhà nước vào quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh cũng là một nội dung rất đáng quan tâm. Để đảm bảo tính độc lập trong hoạt động điều tra các vụ việc cạnh tranh, chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới trong đó có EU trong vấn đề chống độc quyền, mô hình tổ chức hoạt động, cũng như thẩm quyền của Uỷ ban cạnh tranh quốc gia…
Văn Chiến - Nam Kiên
Câu chuyện mở cửa du lịch ở các nước là kinh nghiệm tham khảo cho du lịch Việt Nam
Câu chuyện mở cửa du lịch ở các nước ở thời điểm hiện tại sẽ là kinh nghiệm tham khảo thiết thực cho du lịch Việt Nam trước kế hoạch mở cửa hoàn toàn vào ngày 15/3 tới.
Phòng chống tham nhũng khu vực tư – Hạn chế và giải pháp
(Pháp lý) - Việt Nam đưa doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước vào đối tượng điều chỉnh của Luật Phòng, chống tham nhũng là một trong những bước tiến trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để những quy định kịp thời này đi vào cuộc sống và triển khai hiệu quả…
Tham nhũng trong khu vực tư
Thực tế cho thấy, tham nhũng đang là một nguyên nhân cản trở sự phát triển lành mạnh và thách thức đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Có ý kiến còn cho rằng: Tham nhũng trong khu vực tư đang ngày càng phát triển và có nguy cơ gây ra hệ lụy nghiêm trọng đối với sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội.
Ảnh minh họa
Một cuộc điều tra nhỏ cho thấy, khi được hỏi về hình thức đối phó với các hành vi đòi hối lộ có đến 31% doanh nghiệp sẵn sàng đưa hối lộ, 47% doanh nghiệp đưa hối lộ nhưng sẽ thỏa thuận để có một dàn xếp có lợi hơn. Chỉ có 1/3 số doanh nghiệp nghĩ đến việc sử dụng cơ chế chính thức như tìm kiếm sự trợ giúp từ các cơ quan có thẩm quyền hay các hiệp hội doanh nghiệp. Điều đó cho thấy các doanh nghiệp đang nhẫn nại chịu đựng kiểu “sống chung” với tham nhũng, tham nhũng như một thứ “thuế” không thể tránh được, họ buộc phải cống nộp cho các công chức, viên chức có quyền lực.
Theo số liệu của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam đứng thứ 81 về Đạo đức và Tham nhũng; đứng thứ 109 về các Chi phí Không chính thức và Hối lộ trong tổng số 137 quốc gia được khảo sát. Có đến 66% doanh nghiệp dân doanh trong nước đã phải chi trả các chi phí không chính thức và 59% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) phải trả chi phí không chính thức khi làm thủ tục hải quan. Đồng thời, 61,5% doanh nghiệp có hành vi biếu tiền và hầu như tất cả các doanh nghiệp đều có “lại quả” cho đối tác. Hầu như doanh nghiệp làm việc với cơ quan nhà nước nào cũng đều có chi phí không chính thức cho cơ quan đó.
Đấy là với bên ngoài, còn ngay trong nội bộ các doanh nghiệp cũng có vô số kiểu tham nhũng, nhằm trục lợi từ chức vụ quyền hạn trong doanh nghiệp. Các vị Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc, rồi Kế toán, Thủ kho… đều có thể tham nhũng bằng các thủ đoạn như: đòi hoa hồng, gửi giá, lại quả, đòi nhận lợi ích bất chính từ đối tác của mình để mang lợi cho họ và gây thiệt hại cho doanh nghiệp của mình, tạo điều kiện thanh toán thuận lợi để vụ lợi, gian lận trong kê khai tăng chi phí tiêu hao vật tư, gian lận trong thu mua nguyên liệu đầu vào, gian lận giá bán đầu ra; nhận hối lộ, đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp mình vì vụ lợi.
Đặc biệt, đã xuất hiện loại tội phạm tham nhũng mới với tính chất hết sức nghiêm trọng như tham ô, cố ý làm trái và lừa đảo qua mạng hay các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán (như sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán - giao dịch nội gián hay thao túng giá chứng khoán…)
Trong bối cảnh tham nhũng trong khu vực tư, đặc biệt là trong kinh doanh đang ngày càng phát triển và có nguy cơ gây ra hệ lụy nghiêm trọng đối với sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, một yêu cầu tất yếu đặt ra đó là phòng, chống tham nhũng trong kinh doanh cần phải tiến hành đồng bộ, song song với công tác phòng, chống tham nhũng trong khu vực tư. Khu vực tư không chỉ là nạn nhân của tham nhũng mà còn là tác nhân, chủ thể gây nên tham nhũng bởi những hành vi đưa hối lộ đến những chủ thể có chức vụ, quyền hạn trong khu vực công để đạt được dự án hay sự ưu đãi đối với hoạt động kinh doanh của mình.
Thách thức lớn
Phòng chống tham nhũng nói chung, là một lĩnh vực rất khó khăn, phức tạp, do các đối tượng phạm tội có chức vụ, quyền hạn, am hiểu lĩnh vực của họ và các thủ đoạn thường rất tinh vi. Một khó khăn khác là cả bên đưa hối lộ và bên nhận hối lộ thường đều muốn che giấu, nên dù có dấu hiệu cũng rất khó tìm chứng cứ để đấu tranh.
Khó khăn lớn nhất trong phòng chống tham nhũng trong khu vực tư là vấn đề nhận thức. Không ít doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước hiện nay có nhận thức chưa đúng đắn về vấn đề này. Họ cho rằng, Nhà nước can thiệp quá sâu vào khu vực tư, họ coi phòng chống tham nhũng là của khu vực công, do vậy họ quan niệm rằng Nhà nước hãy cứ làm tốt trong khu vực công đi đã rồi hãy tính đến khu vực tư. Thậm chí họ còn lo ngại hiệu ứng ngược, tức nguy cơ chuyển định hướng của các cơ quan phòng chống tham nhũng bởi công tác này ở khu vực công đã rất khó khăn, rất động chạm, giờ mở thêm quyền hạn chống tham nhũng sang khu vực tư thì các cơ quan này sẽ quan tâm phòng chống tham nhũng trong khu vực tư hơn…
Dưới góc độ kinh tế, tham nhũng trong lĩnh vực tư sẽ làm tăng chi phí và giảm đáng kể lợi nhuận của doanh nghiệp, làm hình thành những thói quen kinh doanh thiếu lành mạnh, làm méo mó bản chất các quan hệ kinh tế. Do đó, không thể phòng chống tham nhũng trong khu vực tư một cách hiệu quả.
Theo Bộ công cụ “Hướng dẫn các doanh nghiệp nhỏ và ngừa phòng ngừa tham nhũng” do các nhà lãnh đạo thuộc Nhóm các nền kinh tế lớn (G20) biên soạn dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, những tổn thất do tham nhũng gây ra rất nghiêm trọng.
Đối với doanh nghiệp có xảy ra hoặc liên quan đến hành vi tham nhũng thì tăng chi phí kinh doanh do phải hạch toán phần chi phí dành cho tham nhũng vào chi phí chung. Nếu lựa chọn phương thức kinh doanh “tham nhũng” thì chi phí bỏ ra sẽ ngày càng tăng lên. Làm suy yếu năng lực cạnh tranh và khả năng phát triển bền vững khi các doanh nghiệp phải đầu tư nguồn lực dành cho tham nhũng. Làm giảm các cơ hội kinh doanh, đặc biệt là khi mới tiếp cận thị trường, tham gia hoạt động đấu thầu, huy động vốn mở rộng kinh doanh, liên doanh, liên kết khi các đối tác biết được có liên quan đến tham nhũng. Hủy hoại uy tín của các doanh nghiệp khi bị phát giác hoặc phanh phui có liên quan đến các vụ việc tham nhũng trong hoạt động kinh doanh. Cơ hội hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các công ty đa quốc gia, gần như bằng không.
Đối với nhà nước và thị trường khi để xảy ra hành vi tham nhũng phổ biến thì cản trở sự phát triển của các thị trường và làm suy giảm dòng vốn đầu tư vào thị trường, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư nước ngoài do sự tâm lý thiếu tin tưởng và cảm giác không an toàn khi ra các quyết định đầu tư. Hủy hoại chế độ pháp quyền - với các nguyên tắc công bằng, bình đẳng, khách quan trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh doanh khi tham nhũng; Tăng chi phí mua sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, trong khi chất lượng giảm sút do nhà cung cấp không được lựa chọn thông qua một quy trình công bằng và khách quan. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế giảm sút, không đủ sức trụ vững trong bối cảnh khi tham gia vào các khu vực thương mại tự do, thực hiện cam kết cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan.
Một Khu công nghiệp (ảnh minh họa)
Giải pháp
Trong một hội thảo về vấn đề này, TS. Trần Đức Lượng, nguyên Phó Tổng Thanh tra Chính phủ cho rằng, trong vấn nạn tham nhũng, doanh nghiệp được nhìn nhận dưới góc độ vừa là nạn nhân, vừa là tác nhân. Khu vực công và khu vực tư được nhiều chuyên gia nhìn nhận như “bình thông nhau” vì có mối quan hệ tác động qua lại, khu vực tư đôi khi là “sân sau” của hành vi tham nhũng trong khu vực công. Vì vậy, để phòng chống tham nhũng hiệu quả, không thể không làm lành mạnh hóa môi trường hoạt động, kinh doanh của khu vực tư.
Về thực tiễn, hiện nay, ngoại trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty đa quốc gia có đại diện Việt Nam vốn đã có bộ quy tắc ứng xử doanh nghiệp và cơ chế kiểm soát nội bộ rất tốt, còn lại nhiều doanh nghiệp trong nước vấn đề này vẫn là một khâu yếu.
Theo các chuyên gia, để khắc phục những khó khăn trên, đòi hỏi cần có thời gian với nhiều giải pháp được tiến hành đồng bộ. Bà Catherine Phương - Trợ lý Đại diện Thường trú UNDP Việt Nam nhấn mạnh, việc thực hiện pháp luật đòi hỏi nỗ lực không chỉ từ phía Chính phủ mà còn từ phía doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần đóng vai trò chủ động và tích cực trong việc thực hiện pháp luật và quy định. Đồng thời, phải đảm bảo thúc đẩy công bằng, bao trùm, liêm chính, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong chính hoạt động kinh doanh của mình.
Còn theo ông Florian Beranek - chuyên gia UNDP về trách nhiệm xã hội và hành vi kinh doanh có trách nhiệm cho rằng, quan trọng hơn cả là thực hiện liêm chính doanh nghiệp. Bởi nếu thực hiện liêm chính doanh nghiệp, thì tham nhũng sẽ không có cơ hội tồn tại trong doanh nghiệp.
Ông Hoàng Hải Vương - Giám đốc vùng Đông Bắc, Ngân hàng Quốc tế Việt Nam VIB cũng cho rằng, để phòng chống tham nhũng hiệu quả trong doanh nghiệp thì phải thực hiện liêm chính doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp cần xây dựng được cơ chế thu nhập từ cấp nhân viên tới cán bộ cấp cao. Khi xây dựng được cơ chế thu nhập hợp lý thì những người này sẽ không còn nhu cầu tham nhũng hoặc nếu có cơ hội tham nhũng, họ sẽ cân nhắc giữa cái lợi và cái mất của mình mà không thực hiện hành vi tham nhũng. Bên cạnh đó, trong nội bộ doanh nghiệp, cần xây dựng và áp dụng các biện pháp phòng chống tham nhũng mang tính khuyến nghị và bắt buộc; đánh giá sự liêm chính của người lao động; thiết lập và đảm bảo việc vận hành hiệu quả kênh báo cáo tố cáo hành vi sai phạm, tham nhũng, làm cơ sở cho việc tăng cường giám sát thực thi các chính sách liêm chính của doanh nghiệp…
Kinh nghiệm quốc tế
Theo Viện Khoa học Thanh tra, các kinh nghiệm phòng chống tham nhũng khu vực tư của các nước trên thế giới được rút ra ở một số nội dung.
Thứ nhất là nâng cao nhận thức về kiểm soát và quản trị nội bộ. Một yếu tố rất quan trọng trong vấn đề kiểm soát và quản trị nội bộ đó là sự tự nguyện của chính tầng lớp lãnh đạo của công ty, tập đoàn lớn. Phần lớn các công ty, tập đoàn lớn trên thế giới đều coi lừa đảo và tham nhũng là những rủi ro, và có một nhận thức sâu sắc rằng các hành vi tham nhũng có thể gây ra những hậu quả tàn phá đối với doanh nghiệp của họ. Vụ việc nổi tiếng nhất về việc tham nhũng làm ảnh hưởng đến danh tiếng của công ty cho đến nay có lẽ là vụ Siemens. Vụ bê bối của Siemens đã được phát hiện từ tháng 11/2006 và đã dẫn tới điều tra ở hơn 10 nước. Bởi theo cáo trạng, Siemens đã trả tiền "lại quả" để giành được hợp đồng về giao thông ở Venezuela, hối lộ để nhận được hợp đồng về mạng lưới điện thoại di động ở Bangladesh, các dự án điện ở Israel và hệ thống kiểm soát giao thông ở Nga. Ngoài ra, tiền lại quả cũng được chi cho các dự án về giao thông tại Trung Quốc, hệ thống mạng lưới điện thoại di động ở VN, Nigeria, các dự án lọc dầu ở Mexico…
Vụ việc bê bối bị phanh phui đã ảnh hưởng sâu sắc và có tính dây truyền đến danh tiếng của Siemens trên toàn cầu. Và như để thể hiện quyết tâm lấy lại danh tiếng đó, hiện nay Siemens đã rất tích cực trong việc tài trợ cho các hoạt động nhằm đấu tranh chống tham nhũng/hối lộ trong kinh doanh mà Việt Nam là một trong nước thụ hưởng chương trình này với Dự án “Sáng kiến xây dựng tính nhất quán và Minh bạch trong quan hệ kinh doanh tại Việt Nam (ITBI)”thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với Trung tâm nghiên cứu chính sách và phát triển (DEPOCEN) triển khai thực hiện.
Thứ hai là, xây dựng và phổ biến tri thức về các hành vi tốt và một nền văn hóa tuân thủ. Tham nhũng cản trở cạnh tranh công bằng, do vậy, Công ước OECD đã thiết lập một sân chơi bình đằng cho chủ thể trong KVT cũng như đề cao các giá trị đạo đức trong kinh doanh. Trên thực tế, các công ty, tập đoàn lớn đều chú trọng xây dựng và thực hiện các cam kết đạo đức cá nhân của các nhà quản lý.
Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng (UNCAC) có hiệu lực thực thi đối với Việt Nam kể từ năm 2009 và là văn bản pháp lý quốc tế phổ cập nhất trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, Công ước không có hiệu lực áp dụng trực tiếp ở Việt Nam. Để thực thi Công ước UNCAC, đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành nội luật hóa, chuyển các quy định của Công ước UNCAC thành pháp luật thực định Việt Nam.
Pháp luật nhiều nước trên thế giới đã nội luật hóa UNCAC, xây dựng một hệ thống pháp luật, gồm nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành hoặc một luật chuyên ngành để điều chỉnh vấn đề này.
BLHS của CHLB Đức quy định về tội phạm tham nhũng trong khu vực tư gồm các tội phạm về cạnh tranh (Điều 299); nhận và đưa hối lộ trong giao dịch kinh doanh (Điều 300). Những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng của nhận và đưa hối lộ trong giao dịch kinh doanh. Hình phạt cao nhất lên đến 5 năm tù giam và tịch thu tài sản do phạm tội mà có. Ngoài ra, các luật khác có liên quan như Luật doanh nghiệp (Điều 405), Luật hợp tác xã (Điều 152) quy định các vi phạm hành chính về đưa, nhận lợi ích có liên quan đến phiếu bầu tại các đại hội cổ đông của doanh nghiệp, của hợp tác xã.
Ở Liên bang Nga, Luật chống tham nhũng quy định các hành vi tham nhũng, bao gồm: Lạm dụng chức vụ hoặc quyền hạn, Đưa hối lộ cho công chức quốc gia hoặc công chức nước ngoài/công chức của tổ chức quốc tế công, Hối lộ thương mại (gồm cả đưa và nhận), Hỗ trợ (môi giới) hối lộ. Theo quy định của Luật chống tham nhũng, chủ thể của các hành vi tham nhũng trong kinh doanh bao gồm: Thành viên của HĐQT; Thành viên của ban giám đốc; Người đang thực hiện một công việc hoặc trách nhiệm thường xuyên hoặc tạm thời đối với những chức năng tổ chức, kỉ luật, hành chính hoặc kinh tế của tổ chức.
Ở Nhật Bản, có một hệ thống pháp luật chống tham nhũng trong khu vực tư khá toàn diện và chặt chẽ, gồm: Luật công ty, Luật về các công cụ và giao dịch công cụ tài chính, Luật phá sản, Hướng dẫn phòng ngừa hối lộ công chức nước ngoài - Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp.
Trong Luật công ty, quy định một số tội phạm về tham nhũng trong kinh doanh như: các tội phạm bội tín (Điều 960, Điều 961); tội sử dụng tài liệu giả mạo (Điều 964); tội đưa hoặc nhận hối lộ (Điều 967); tội đưa hoặc nhận hối lộ liên quan tới việc thực hiện quyền của cổ đông (Điều 168). Tương tự như vậy, Luật về các công cụ tài chính và giao dịch công cụ tài chính cũng quy định tội đưa và nhận hối lộ (Điều 203).
Tham khảo kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng từ các nước khác và quyết tâm đưa quy định của pháp luật vào cuộc sống với nguyên tắc: "Không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai" thì chắc chắn công tác này sẽ có chuyển biến tích cực, làm lành mạnh hóa nền kinh tế đang còn nhiều khó khăn của Việt Nam.
MINH KHÔI
Chính sách thuế đối với phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Bài viết này nghiên cứu thực trạng chính sách thuế đối với khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam, qua đó làm rõ những ưu đãi về thuế đối với khu vực này.
Thách thức mới từ vấn đề lạm phát
Chỉ bằng cách xác định rõ nguyên nhân thực sự của tình trạng lạm phát hiện nay, chúng ta mới có thể xác định chính xác các giải pháp hạ nhiệt lạm phát.
Thế giới kỳ vọng chinh phục thách thức và phục hồi mạnh mẽ trong năm Nhâm Dần
Hổ tượng trưng cho sức mạnh và lòng dũng cảm. Các nhà hoạch định chính sách hy vọng sức mạnh của “Nhâm Dần” sẽ giúp thế giới vượt qua mọi thách thức, thoát khỏi đại dịch Covid-19 để trở lại cuộc sống bình thường.
Đến khu “tam giác vàng” một tiếng gà gáy cả 3 nước đều nghe
Ngã ba Đông Dương, huyện Ngọc Hồi (tỉnh Kon Tum) là nơi tiếp giáp ba nước (Việt Nam-Lào-Campuchia) hay được gọi là nơi “một tiếng gà gáy ba nước cùng nghe”. Ngã ba này còn được mệnh danh là khu “tam giác vàng”, nơi diễn ra các hoạt động giao thương quan trọng giữa ba nước láng giềng.