Các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội “Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên”
Cũng giống như các tội danh khác, để khởi tố bị can về tội Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (tội danh được quy định tại Điều 227 Bộ luật Hình sự hiện hành), cơ quan có thẩm quyền phải có đủ căn cứ thỏa mãn 4 yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP): Chủ thể của tội phạm, khách thể của tội phạm, khách quan của tội phạm và chủ quan của tội phạm.
+ Chủ thể và chủ quan của tội phạm: Người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại đủ điều kiện chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 75 Bộ luật Dân sự; (ii) Về mặt chủ quan của tội phạm đối với tội danh Vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên phải là hành vi thực hiện với lỗi cố ý (có thể là lỗi trực tiếp hoặc lỗi gián tiếp)
Khai thác khoáng sản trái phép gây thiệt hại môi trường nghiêm trọng ( Ảnh minh hoạ )
+ Khách thể của tội phạm: Được hiểu là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Nếu quan hệ xã hội không bị xâm hại thì không có hành vi nguy hiểm cho xã hội và tất yếu không có tội phạm. Do đó, khi đề cập đến tội phạm thì trước tiên cần phải xác định quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ bị xâm hại.
Đối với vụ án xảy ra tại Công ty CP Tập đoàn Thái Dương, C03 đã xác định đối tượng mà các bị can nguyên là lãnh đạo Tập đoàn này xâm phạm là quặng đất hiếm, quặng sắt tại mỏ Yên Phú, xã Yên Phú, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Các bị can đã xâm phạm chế độ quản lý của nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên được thể hiện qua các quy định của pháp luật cụ thể là vi phạm trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là Luật Khoáng sản và các quy định của Nhà nước về quản lý trong lĩnh vực nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên.
+ Về khách quan của tội phạm: Được hiểu là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả của hành vi nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, hoàn cảnh phạm tội… Thông qua biểu hiện bên ngoài ở mặt khách quan của tội phạm có thể đánh giá được tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Theo đó, đối với tội Vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên được thực hiện bằng hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên trong đất liền, hải đảo, nội thủy, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và vùng trời của Việt Nam. Hành vi vi phạm này có thể là hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên không có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền hoặc tuy có giấy phép nhưng không đúng với nội dung đã ghi trong giấy phép.
Tuy nhiên soi chiếu với vụ án xảy ra tại Công ty CP Tập đoàn Thái Dương , hành vi của các bị can chỉ CCTP khi việc khai thác các quặng đất hiếm, quặng sắt tại mỏ Yên Phú, xã Yên Phú, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái gây thiệt hại cho môi trường tài nguyên thiên nhiên Việt Nam, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các vùng rừng và diện tích đất rừng xung quanh khu vực khai thác cũng như phá vỡ đi cảnh quan thiên nhiên, những di tích lịch sử để lại. Nghĩa là hậu quả thiệt hại phải do nguyên nhân từ các hành vi vi phạm quy định về khai thác khoáng sản trái phép, không phải do các nguyên nhân khác. Nếu hành vi vi phạm không gây hậu quả, hậu quả không do hành vi vi phạm gây ra thì không CTTP vi phạm các quy định về khai thác khoáng sản trái phép. Cụ thể là phải thỏa mãn các điều kiện về hậu quả (là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm) mà chủ thể của tội phạm đã gây ra theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Hình sự 2015.
Đối với vụ án xảy ra tại Công ty CP Tập đoàn Thái Dương, CQĐT đã xác định Đoàn Văn Huấn, Chủ tịch Hội đồng Quản trị, kiêm Tổng Giám đốc và Nguyễn Văn Chính, Phó Tổng Giám đốc, kiêm Kế toán trưởng Công ty đã chỉ đạo, tổ chức khai thác, tiêu thụ trái phép 11.233.102kg quặng đất hiếm có trị giá khoảng 440 tỷ đồng và 152.856.646kg quặng sắt có trị giá khoảng 192 tỷ đồng, hưởng lợi bất chính tổng số tiền khoảng 632 tỷ đồng; vi phạm Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 9/2/2012 của Thủ tướng Chính phủ, các khoản 3, 5, 7 Điều 2 và Điều 3 Giấy phép khai thác khoáng sản số 927/GP-BTNMT... Như vậy việc khởi tố các bị can là lãnh đạo Công ty CP Tập đoàn Thái Dương về tội Vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên theo Điều 227 BLHS 2015 là có căn cứ.
Điều 227. Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên
1. Người nào vi phạm các quy định của Nhà nước về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên trong đất liền, hải đảo, nội thủy, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và vùng trời của Việt Nam mà không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép thuộc một trong những trường hợp sau đây hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Thu lợi bất chính từ nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên nước, dầu khí hoặc loại khoáng sản khác từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Khoáng sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Thu lợi bất chính từ nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên nước, dầu khí hoặc loại khoáng sản khác 500.000.000 đồng trở lên;
b) Khoáng sản trị giá 1.000.000.000 trở lên;
c) Có tổ chức;
d) Gây sự cố môi trường;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 04 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
e) Làm chết người.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng.
4. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Pháp nhân thương mại thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều này, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 7.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;
c) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
So sánh tội danh Điều 227 với tội Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí (Điều 219)
Tội Vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên được quy định tại Điều 227 và tội Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí được quy định tại Điều 219 đều nằm trong Mục 3 thuộc nhóm các tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thuộc Chương XVIII Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017. Vậy dấu hiệu pháp lý của 2 tội danh này có gì khác biệt, đặc biệt soi chiếu phân tích qua vụ án xảy ra tại Công ty CP Tập đoàn Thái Dương ???
+ Về chủ thể và chủ quan của tội phạm: Đối với tội Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí phải thỏa mãn điều kiện như: (i) Ngoài yếu tố từ đủ 16 tuổi trở lên và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định, chủ thể của tội phạm (không điều chỉnh đối với pháp nhân như tội danh Điều 219) chỉ có thể là những người được giao nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý, bảo vệ tài sản của nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp (người có trách nhiệm quản lý gián tiếp đối với tài sản như Thủ trưởng đơn vị không phải là chủ thể của tội này); (ii) Về mặt chủ quan của tội phạm, hành vi của cá nhân thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp (khác với tội danh Điều 219 có thể là lỗi trực tiếp hoặc lỗi gián tiếp)
+ Về khách thể của tội phạm: Hiểu theo thuật ngữ tài sản công được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017: “Tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao gồm: tài sản công phục vụ hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại cơ quan, tổ chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; tài sản công tại doanh nghiệp; tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, dự trữ ngoại hối nhà nước; đất đai và các loại tài nguyên khác”. Như vậy cả 2 tội danh đều giống nhau ở yếu tố CTTP là xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế là các quy định của Nhà nước về quản lý trong lĩnh vực nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên được BLHS bảo vệ là tài sản công tại Điều 219 và 227 BLHS.
+ Về khách quan của tội phạm: Đây chính là dấu hiệu tạo ra sự khác biệt trong việc truy cứu TNHS của 21 bị can (tính đến thời điểm này) trong vụ án Tập đoàn Thái Dương và các công ty có liên quan. Nếu như tội Vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên theo Điều 227 BLHS, các chủ thể có hành vi vi phạm (theo kết luận C03, có hành vi chỉ đạo, tổ chức khai thác, tiêu thụ trái phép 11.233.102kg quặng đất hiếm có trị giá khoảng 440 tỷ đồng và 152.856.646kg quặng sắt có trị giá khoảng 192 tỷ đồng; vi phạm Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 9/2/2012 của Thủ tướng Chính phủ, các khoản 3, 5, 7 Điều 2 và Điều 3 Giấy phép khai thác khoáng sản số 927/GP-BTNMT); thì các bị can vừa bị C03 khởi tố (gồm: cựu Thứ trưởng Bộ TNMT, cựu Tổng CT Tổng cục Địa chất và khoáng sản, cựu Vụ trưởng Vụ Khoáng sản, cựu CVC Vụ Khoáng sản, Giám đốc và PGĐ Sở TNMT tỉnh Yên Bái, cựu Trưởng phòng Khoáng sản, Sở TNMT tỉnh Yên Bái) về tội Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí theo qui định tại Điều 219 BLHS, mặc dù chưa lộ rõ hành vi nhưng chắc chắn các bị can đã có hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản, gây thất thoát, lãng phí của người được giao quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước.
Cụ thể đó là các hành vi bị cấm trong quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước được quy định tại Điều 10 Luật Quản lý, sử dụng tài sản Công năm 2017. Trong đó đối với vụ án Tập đoàn Thái Dương có thể là hành vi: (i) Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt, chiếm giữ và sử dụng trái phép tài sản công; (ii) Giao tài sản công cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân vượt tiêu chuẩn, định mức hoặc giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân không có nhu cầu sử dụng; (iii) Sử dụng hoặc không sử dụng tài sản công được giao gây lãng phí; sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết không phù hợp với mục đích sử dụng của tài sản, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ do Nhà nước giao; sử dụng tài sản công để kinh doanh trái pháp luật; (iiii) Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ trong quản lý, sử dụng tài sản công theo quy định của pháp luật...
Cũng như tội Vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên, đối với tội Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí theo quy định tại Điều 219 BLHS chỉ CTTP khi thỏa mãn điều kiện, đó là: Khi hậu quả gây thất thoát, lãng phí từ 100.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Nếu hậu quả xảy ra thấp hơn mức quy định trên, người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng phải chịu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định 63/2019/NĐ-CP ngày 11/7/2019 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; sự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước.
Điều 219. Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí
1. Người nào được giao quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước mà vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản, gây thất thoát, lãng phí từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:
a) Vì vụ lợi;
b) Có tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.