Chiều ngày 9/11, Quốc hội tiến hành thảo luận tại Tổ về Dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi)
Sửa đổi, bổ sung 5 nội dung lớn về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án
Trình bày Tờ trình về dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình cho biết, dự án Luật hướng đến mục tiêu hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân; xây dựng hệ thống Tòa án chuyên nghiệp, hiện đại, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Về những nội dung sửa đổi, bổ sung lớn của dự thảo Luật, Chánh án Nguyễn Hòa Bình cho biết, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung 5 nội dung lớn về nhiệm vụ, quyền hạn; hoàn thiện tổ chức bộ máy; đổi mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Tòa án; Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia và đổi mới chế định nhân dân tham gia xét xử.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình trình bày Tờ trình.
Trong đó dự thảo luật bổ sung 2 nhiệm vụ, quyền hạn mới cho Tòa án là giải quyết, xét xử vi phạm hành chính theo quy định của luật và giải thích áp dụng pháp luật trong xét xử. Dự thảo luật sửa đổi theo hướng bỏ quy định Tòa án có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự tại phiên tòa. Nếu tại phiên tòa, hội đồng xét xử phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì thực hiện quyền kiến nghị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Bên cạnh đó, dự án luật sửa đổi theo hướng Tòa án không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ. Trong vụ án hình sự, Tòa căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện Kiểm sát thu thập, làm rõ tại phiên tòa và kết quả tranh tụng để xét xử.
Trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà các bên đã thu thập, giao nộp cho Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng và kết quả tranh tụng để xét xử.
Đáng chú ý, về hoàn thiện tổ chức bộ máy Tòa án, dự thảo luật quy định tổ chức Tòa án nhân dân phúc thẩm thay cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân sơ thẩm thay cho Tòa án nhân dân cấp huyện. Ví dụ Tòa án nhân dân phúc thẩm Hà Nội, Tòa án nhân dân sơ thẩm Hoàn Kiếm… Việc này để thể chế hóa nhiệm vụ "bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử" được đề ra tại Nghị quyết 27 của Trung ương. Đồng thời, quy định này phù hợp với định hướng phát triển lâu dài của Tòa án. Thời gian tới sẽ tiếp tục đề xuất tăng thẩm quyền cho Tòa án nhân dân sơ thẩm khi các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm có đủ năng lực điều tra, truy tố, xét xử tất cả các loại vụ việc. Tòa án nhân dân phúc thẩm sẽ có nhiệm vụ chính yếu là xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Dự thảo luật bổ sung quy định trong hệ thống Tòa án có các Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt để xét xử một số loại án đặc thù. Dự luật cũng đổi mới ngạch, bậc của các chức danh tư pháp, theo đó Thẩm phán Tòa án gồm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2 bậc) và Thẩm phán (9 bậc). Bên cạnh đó, bổ sung tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bao gồm độ tuổi, thâm niên giữ ngạch, phẩm chất đạo đức và tín nhiệm, chất lượng công việc đã hoàn thành...
Về đổi mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Tòa án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cho biết, đổi mới ngạch, bậc của các chức danh tư pháp Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký để khắc phục những hạn chế, bất cập của quy định hiện hành trong việc điều động, bố trí, thực hiện chính sách cho Thẩm phán, nâng cao niềm tin của người dân đối với các cấp xét xử; khuyến khích Thẩm phán chuyên tâm phấn đấu cho hoạt động xét xử để trở thành các chuyên gia có trình độ cao...
Ủy ban Tư pháp không tán thành việc đổi tên Tòa án cấp tỉnh, cấp huyện
Thẩm tra nội dung đổi tên TAND cấp tỉnh và huyện thành TAND phúc thẩm và sơ thẩm, Ủy ban Tư pháp cho biết đa số ý kiến trong Ủy ban không tán thành với dự thảo, bởi việc đổi tên chỉ là "vấn đề hình thức" - đổi tên gọi mà không thay đổi nội dung. Các tòa án này vẫn gắn với các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp tỉnh và giữ nguyên về thẩm quyền; chưa đáp ứng yêu cầu bảo đảm tính độc lập theo thẩm quyền xét xử. Bên cạnh đó, việc thay đổi này dẫn tới không tương thích về tổ chức với các cơ quan tư pháp khác ở địa phương như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.
Việc này cũng dẫn đến phải sửa đổi, bổ sung nhiều đạo luật liên quan, nhất là các luật trong lĩnh vực tư pháp. "Đề nghị giữ nguyên tên gọi của TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh như quy định của Luật hiện hành", báo cáo thẩm tra nêu.
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi).
Tại tờ trình, Chính phủ cho biết đề xuất này đang có hai luồng ý kiến. Thứ nhất là đồng tình, cho rằng thay đổi trên nhằm thể chế hóa các quan điểm của Đảng về "bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử" được đề ra tại Nghị quyết số 27 của Trung ương và phù hợp với định hướng phát triển lâu dài của Tòa án.
Theo Hiến pháp, Tòa án thực hiện thẩm quyền tài phán của quốc gia, không phải là Tòa án của tỉnh, huyện hay địa phương nào. Tòa án hoạt động theo thẩm quyền tố tụng nên việc tổ chức theo cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm không đơn thuần là đổi tên mà chính là tuân thủ Hiến pháp và đảm bảo nguyên tắc độc lập xét xử.
Ý kiến này cho rằng đổi mới tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử sẽ dẫn đến phải sửa con dấu, biển hiệu nhưng "lợi ích mang lại sẽ lớn hơn nhiều so với chi phí thực hiện việc chuyển đổi".
Bên cạnh đó, việc này không ảnh hưởng đến tổ chức, hoạt động và quan hệ phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng; không tăng thêm đầu mối, biên chế; không gây xáo trộn về tổ chức cán bộ; không phải sửa luật có liên quan vì đã được quy định trong điều khoản chuyển tiếp.
Ở luồng ý kiến thứ hai cho rằng, việc đổi mới tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử chỉ là đổi tên, do đó cần cân nhắc thêm.
Thảo luận tại Tổ chiều 9/11, đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy (Phó chủ nhiệm Ủy ban Xã hội) cho rằng việc đổi tên không tương thích về tổ chức với các cơ quan tư pháp khác ở địa phương. "Giờ ta có gọi VKSND phúc thẩm và VKSND sơ thẩm hay vẫn VKSND cấp tính, VKSND cấp huyện", bà đặt vấn đề.
Bà lo ngại việc thay đổi cũng phát sinh nhiều chi phí như sửa con dấu, biển hiệu, giấy tờ, biển chức danh. "Mọi sự điều chỉnh pháp luật đều phát sinh chi phí ngân sách, chi phí xã hội nên tôi không tán thành điều này", bà nói.
Cùng quan điểm đề xuất này của TAND Tối cao "chưa đủ lý lẽ, chưa đủ sức thuyết phục", đại biểu Huỳnh Thanh Phương, Bí thư Huyện ủy Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh, nói việc đổi tên này sẽ kéo theo phải sửa nhiều luật liên quan, như Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự gây tốn kém, mất thời gian.
Ông đề nghị cơ quan soạn thảo báo cáo, đánh giá tác động, làm rõ việc thay đổi hệ thống tòa án này. Nếu thấy chưa thực sự cấp thiết, quan trọng, cơ quan soạn thảo cân nhắc lại quy định này trong dự thảo.
Thành lập tòa án sơ thẩm chuyên biệt cần cụ thể theo từng khu vực
Liên quan đến TAND sơ thẩm chuyên biệt, tại điểm đ, khoản 1, Điều 4; Điều 62 và 63 Dự thảo Luật quy định, trong tổ chức của TAND gồm có: TAND sơ thẩm chuyên biệt để xét xử sơ thẩm các vụ việc đặc thù theo quy định của pháp luật... các ĐBQH cơ bản tán thành quy định trong tổ chức TAND có TAND sơ thẩm chuyên biệt để giải quyết một số loại việc có tính chất đặc thù, đòi hỏi chuyên môn hóa cao, góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp của Tòa án, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn…
ĐBQH Mai Văn Hải (Thanh Hóa) phát biểu tại tổ chiều 9.11
Tuy nhiên, góp ý về vấn đề này, ĐBQH Mai Văn Hải (Thanh Hóa) nêu quan điểm: việc thành lập toàn án sơ thẩm chuyên biệt là cần thiết, nhưng không phải nơi nào cũng thành lập mà nên quy định cụ thể theo từng khu vực.
Đồng tình với ý kiến trên, các ĐBQH cũng cho rằng, cơ quan soạn thảo cần làm rõ thêm về thành lập các TAND sơ thẩm chuyên biệt cụ thể, số lượng và địa vị pháp lý của các Tòa án này; mối quan hệ của Tòa án này với cấp ủy Đảng, HĐND và các cơ quan hữu quan khác tại địa phương. Mặt khác, đề nghị quy định cụ thể các TAND sơ thẩm chuyên biệt (về sở hữu trí tuệ, phá sản, hành chính…) ngay trong dự thảo Luật.
Cần làm rõ một số quy định về quyền tư pháp của Tòa án
Phát biểu góp ý vào dự thảo luật tại Tổ về một số nội dung cụ thể, ĐBQH Nguyễn Hữu Chính – Chánh án TAND TP Hà Nội cho biết, khoản 1 Điều 3 dự thảo luật quy định TAND thực hiện quyền tư pháp, bao gồm quyền xét xử, quyền quyết định các tranh chấp vi phạm pháp luật, đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật…
Ông Chính nêu rõ, trong các Nghị quyết của Trung ương như Nghị quyết 27, Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị đều khẳng định Tòa án là trung tâm thực hiện quyền tư pháp. Vậy quyền tư pháp này là gì, cần phải cụ thể hóa. Do vậy, Ban soạn thảo dự luật đã đưa ra một số quyền để triển khai cụ thể hóa các Nghị quyết nêu trên. Vấn đề là cần rà soát, bổ sung để phù hợp và đầy đủ hơn.
Về quy định thu thập chứng cứ, trước đây quy định nghĩa vụ thu thập chứng cứ thuộc về Tòa án, còn bây giờ theo dự thảo Luật sửa đổi thì nghĩa vụ thu thập chứng cứ thuộc về đương sự. Chánh án TAND TP Hà Nội Nguyễn Hữu Chính nhấn mạnh, trong các vụ án dân sự, quy định sửa đổi như dự thảo luật là rất khoa học và khách quan, đồng thời giảm được nhiều tiêu cực trong thực tế.
“Qua tham khảo kinh nghiệm nhiều nước, đa phần các nước quy định, việc thu thập chứng cứ thuộc về đương sự, còn Tòa án chỉ là nơi nhận chứng cứ đó. Nếu đủ chứng cứ rồi thì Tòa ra phán xét” – ông Chính thông tin thêm.
Cũng góp ý vào quy định điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ, đại biểu Nguyễn Huy Thái – Đoàn ĐBQH tỉnh Bạc Liêu bày tỏ tán thành với loại ý kiến thứ nhất tại Tờ trình. Theo đại biểu, đối với vụ việc dân sự, vụ án hành chính: nghĩa vụ thu thập chứng cứ và chứng minh thuộc về đương sự, Tòa án không có trách nhiệm thu thập chứng cứ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự trong quá trình tố tụng, Tòa án hướng dẫn, yêu cầu các đương sự thu thập chứng cứ. Trường hợp đương sự là người yếu thế trong xã hội thì Tòa án hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ.
Tuy nhiên, đại biểu tỉnh Bạc Liêu bày tỏ, cần làm rõ đối tượng người yếu thế trong xã hội quy định tại dự thảo luật gồm những đối tượng nào và nên cân nhắc mở rộng nhóm đối tượng này nhằm phù hợp với thực tiễn.
Cân nhắc kỹ tính khả thi về chức năng, quyền hạn và thẩm quyền của tòa án trong giải quyết và xét xử các vi phạm hành chính.
Nêu ý kiến thảo luận tại tổ về luật Tổ chức tòa án nhân dân, Bộ trưởng Tư pháp Lê Thành Long cho rằng, tòa án hiện có thẩm quyền trong xử lý vi phạm hành chính đối với 4 trường hợp.
Bộ trưởng Tư pháp Lê Thành Long
Cụ thể, gồm xử phạt hành chính đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng; áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và áp dụng các biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Mặt khác, chức năng và nhiệm vụ chính liên quan đến việc này của Chính phủ là kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm đối với các hành vi vi phạm quy tắc quản lý hành chính nhà nước từ T.Ư tới địa phương, để bảo đảm quản lý nhà nước gắn liền với việc phát hiện và xử lý các vi phạm hành chính.
“Nếu chuyển toàn bộ chức năng này hay một phần chức năng này sang bên tòa án, cần phải có đánh giá rất kỹ, có nên chuyển từ Chính phủ sang tòa án hay không”, Bộ trưởng Tư pháp nêu và đề nghị cân nhắc để tránh trùng lẫn với chức năng, nhiệm vụ của tòa án với Chính phủ.
Theo thống kê của Chính phủ, số vụ vi phạm hành chính trong năm 2019 khoảng độ 5,8 triệu vụ, số quyết định xử phạt hành chính đã ban hành khoảng 6,1 triệu quyết định. Năm 2020 con số tương ứng là 4,8 triệu vụ và gần 5,9 triệu quyết định xử phạt; năm 2021 là 4 triệu vụ và 4,6 triệu quyết định xử phạt; năm 2022 là gần 4 triệu vụ và 4,1 triệu quyết định xử phạt. Ông Long cho rằng đây là một con số rất là lớn.
Hiện nay, theo luật Xử lý vi phạm hành chính, có gần 200 các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Nếu tính ra số lượng người tuyệt đối tại tất cả các cấp, các ngành có chức năng xử phạt con số rất lớn. Do đó, tư lệnh ngành tư pháp đề nghị cân nhắc kỹ tính khả thi, trước mắt cần bỏ điều 26.
Cân nhắc kỹ quy định bỏ quyền khởi tố tại tòa
Theo dự thảo Luật, không quy định Tòa án có nhiệm vụ, quyền hạn ra quyết định khởi tố vụ án tại phiên tòa. Theo Tòa án Nhân dân Tối cao, việc khởi tố, điều tra, truy tố là trách nhiệm của cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát. Tòa án là cơ quan xét xử; nếu Tòa án khởi tố vụ án, sau đó lại xét xử vụ án đó thì có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư trong quá trình xét xử.
Tuy nhiên, ĐBQH Trương Trọng Nghĩa cho rằng, lập luận này là “không đúng”. Bởi lẽ, Tòa án Việt Nam theo hệ dân luật. Thêm vào đó, khởi tố không có nghĩa là sẽ tiến hành xét xử, mà là để xem có tội hay không, có hành vi phạm tội hay không, sau đó giao về cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát để tiến hành điều tra. Trên cơ sở kết quả điều tra, Viện Kiểm sát xem xét có tội hay không mới làm cáo trạng, sau đó quay trở lại tòa và khi đó tòa cử hội đồng xét xử. Như vậy, hai việc này không ảnh hưởng gì lẫn nhau.
Theo đại biểu Trương Trọng Nghĩa, việc quy định Tòa án có quyền khởi tố là bởi trong quá trình thu thập chứng cứ tại tòa - nơi có rất nhiều chứng cứ, nếu thấy có dấu hiệu lọt tội thì Tòa án cần phải khởi tố, sau đó mới đến điều tra. Vì thế, đại biểu không đồng ý bỏ chức năng này của Tòa án trong dự thảo Luật.
ĐBQH Dương Ngọc Hải cho rằng, quy định tòa án có quyền khởi tố tại tòa chính là nhằm phát huy vai trò, quyền năng của tòa án, thậm chí chống bỏ lọt tội phạm, chống oan sai.
“Thực tế, có những vụ án, Tòa án trả hồ sơ song trong trường hợp cơ quan điều tra không làm, hoặc làm một thời gian và ra quyết định không khởi tố tố vụ án, thì tòa giải quyết như nào? Tòa án không thể bó tay được, mà phải sử dụng quyền là khởi tố vụ án tại tòa”, đại biểu Dương Ngọc Hải nhấn mạnh.
Cũng theo đại biểu, quyền khởi tố tại tòa của Tòa án đã phát huy hiệu quả trong thực tế. Đơn cử như vụ án của Ngân hàng Xây dựng, tài sản thu hồi được lên tới 10.000 tỷ, là do Tòa án đã thể hiện vai trò của mình trong khởi tố vụ án.
Từ những phân tích trên, đại biểu Dương Ngọc Hải cho rằng, Ban soạn thảo cần hết sức cân nhắc về việc bỏ thẩm quyền khởi tố tại tòa của Tòa án. Quy định này không can thiệp vào thẩm quyền của cơ quan điều tra. Đồng thời, cần đánh giá vì sao trên thực tế, Tòa án không thực hiện quyền năng này…