Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong kỷ nguyên mới: Lý luận, thực tiễn và định hướng

Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển, với xu thế hội nhập sâu rộng và cách mạng công nghiệp 4.0, việc nâng cao chất lượng quản lý nhà nước, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân trở thành yêu cầu cấp bách. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) cùng các tổ chức thành viên luôn giữ vai trò trung tâm, cầu nối trong việc kết nối chính quyền với nhân dân, thực thi nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội, đồng thời đại diện và bảo vệ quyền lợi của người dân. Phản biện xã hội (PBXH) không chỉ là quyền lợi chính trị mà còn là công cụ nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong các cơ quan công quyền.
1-1759369519.jpg

Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị đánh giá sơ bộ kết quả lấy ý kiến vào dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 trong hệ thống MTTQ Việt Nam

1. Mở đầu

MTTQVN và các tổ chức thành viên giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong cơ chế này. Với vị trí là liên minh chính trị, tổ chức liên hiệp tự nguyện của các tầng lớp nhân dân, MTTQVN và các tổ chức thành viên không chỉ đóng vai trò tập hợp, đoàn kết, mà còn là “kênh phản biện” chủ lực để bảo đảm chính sách hướng tới lợi ích chung, phụng sự người dân.

Trong kỷ nguyên mới, yêu cầu đối với công tác phản biện chính sách của MTTQVN và các tổ chức thành viên trở nên cao hơn, phản biện không chỉ để điều chỉnh chi tiết chính sách, mà phải góp phần định hướng chiến lược, bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế, ổn định xã hội, bảo vệ môi trường và quyền lợi công dân. Điều này đặt ra nhu cầu vừa nâng cao năng lực phản biện xã hội, vừa thích ứng với phương thức vận hành của xã hội số, dữ liệu mở và dân chủ tham gia.

MTTQVN là một bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; tập hợp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; thể hiện ý chí, nguyện vọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; phản ánh ý kiến, kiến nghị của Nhân dân với các cơ quan nhà nước; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. MTTQVN và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị nước ta, tuy có vai trò, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động khác nhau nhưng đều là công cụ thực hiện và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân nhằm một mục đích chung là: Phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế.

Trải qua 95 năm, MTTQVN đã không ngừng phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đồng hành cùng dân tộc hoàn thành mọi trọng trách mà Đảng và Nhân dân giao phó, trong đó phải kể đến thực thi nhiệm vụ phản biện chính sách vì mục tiêu tất cả lợi ích, chính sách phụng sự người dân trong kỷ nguyên mới.

2. Cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn

2.1. Cơ sở lý luận và pháp lý

Trong tiến trình đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, MTTQVN luôn giữ vị trí là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp và các cá nhân tiêu biểu. Với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, Mặt trận không chỉ đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân mà còn giữ vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. PBXH được thể hiện rõ nét trong văn bản của Đảng, đó là Quyết định 217-QĐ/TW (2013) của Bộ Chính trị: Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh vai trò phản biện để phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận.

Trong điều kiện của xã hội hiện đại, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, đặc biệt là sự bùng nổ của công nghệ thông tin, trình độ dân trí và các phương thức tham gia vào đời sống xã hội ngày càng phong phú, đa dạng với tốc độ nhanh và mạnh mẽ, thì thuật ngữ phản biện được sử dụng một cách phổ biến hơn theo hướng “xã hội hóa” và được mở rộng hơn về ngữ nghĩa, trong đó có một số ý cơ bản sau: (1) Phản biện là xem xét, phân tích, lập luận các mặt, các khía cạnh khác nhau của sự việc, hiện tượng để tìm ra bản chất và những đặc trưng cơ bản của nó. (2) Phản biện là hoạt động có tính độc lập, khách quan và phải tuân theo những quy trình, chuẩn mực nhất định, chủ thể thực hiện phản biện phải có trình độ, năng lực và phương pháp làm việc phù hợp. (3) Mục đích của phản biện là đưa ra những ý kiến, nhận xét có giá trị tham khảo cho việc đánh giá chất lượng của các công trình, đề án, chính sách, pháp luật đã được thực hiện, ban hành hoặc đóng góp cho việc hoàn thiện các dự thảo chương trình, kế hoạch, đề án, dự án văn bản pháp luật…, vì vậy đối tượng (khách thể) của phản biện thường được chọn lọc và cần có những điều kiện nhất định để thực hiện.

Phản biện xã hội là hoạt động có tính xã hội rộng rãi, có nội dung phong phú, có những đặc trưng, hình thức, phương pháp thực hiện đặc thù và luôn đòi hỏi tính khách quan, khoa học, ý thức tổ chức và trách nhiệm cao của chủ thể thực hiện PBXH. PBXH do các tổ chức xã hội, các tầng lớp xã hội và cá nhân thực hiện, vì vậy nó có tính xã hội rộng rãi. Tuy nhiên, những nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đã cho thấy, nội dung cơ bản của PBXH luôn là những vấn đề có liên quan đến tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước và những vấn đề quan trọng, có tính thời sự của hệ thống chính trị.

hp1-1759369716.jpg

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, Kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014, được sửa đổi, bổ sung bởi: Nghị quyết số 203/2025/QH15 ngày 16 tháng 6 năm 2025 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 16 tháng 6 năm 2025

“Điều 9.

1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thể hiện ý chí, nguyện vọng và phát huy quyền làm chủ của 1 Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết số 203/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 16 tháng 6 năm 2025. 4 Nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; phản ánh ý kiến, kiến nghị của Nhân dân đến các cơ quan nhà nước; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; được tổ chức và hoạt động thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; cùng với các tổ chức thành viên khác của Mặt trận hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì. 3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động”.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2025, tại Điều 1 đã quy định:

“Điều 1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Kế thừa vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thể hiện ý chí, nguyện vọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; phản ánh ý kiến, kiến nghị của Nhân dân đến các cơ quan nhà nước; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”.

Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 có một chương riêng, gồm 5 điều về phản biện xã hội, theo đó, tại Điều 32 đã quy định:

“Điều 32. Tính chất, mục đích và nguyên tắc phản biện xã hội

1. Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án (sau đây gọi chung là dự thảo văn bản) của cơ quan nhà nước.

2. Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội, khách quan, khoa học, xây dựng, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả của văn bản; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội.

3. Hoạt động phản biện xã hội được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch, bảo đảm sự tham gia của thành viên, hội viên, đoàn viên và Nhân dân; tôn trọng các ý kiến khác nhau nhưng không trái với quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc”.

Khác với hoạt động tham gia góp ý kiến đối với các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, PBXH là hoạt động tham gia góp ý kiến đối với các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều có mục đích là phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Thông qua MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên, các hoạt động này tạo môi trường và điều kiện nhân dân để thể hiện ý chí, nguyện vọng và chính kiến của mình đối với các chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời cũng là cơ sơ để nhân dân thực hiện sự giám sát xã hội đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, góp phần nâng cao vai trò của MTTQ Việt Nam trong việc tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thể hiện ý chí nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, đại diện quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.

Tuy nhiên, PBXH và tham gia ý kiến có sự khác nhau căn bản về cơ chế đó là: Cơ chế về tham gia ý kiến còn chưa thực sự đầy đủ và không có tính bắt buộc. Pháp luật chỉ qui định quyền tham gia ý kiến vào các dự án luật, pháp lệnh đối với mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân, mà chưa có qui định cụ thể về phương thức tham gia; việc tiếp thu hoặc không tiếp thu, trả lời ý kiến của nhân dân, cơ quan, tổ chức chưa có qui định cụ thể của pháp luật. Nội dung tham gia không có hướng dẫn, trừ khi Quốc hội, UBTVQH có kế hoạch lấy ý kiến nhân dân vào một dự án Luật nào đó. Có điều kiện thì tham gia ý kiến, không có điều kiện thì không ràng buộc trách nhiệm. Còn đối với cơ chế PBXH khác ở điểm căn bản là muốn phản biện phải được cụ thể thành pháp luật với các qui định chặt chẽ, rõ ràng về chủ thể có quyền phản biện, đối tượng và phạm vi phản biện, nguyên tắc phản biện, quyền trách nhiệm của các chủ thể phản biện, cơ chế trả lời các kiến nghị của chủ thể phản biện (tiếp thu, không tiếp thu, tiếp thu ở mức độ nào) và những điều kiện bảo đảm để thực hiện PBXH chặt chẽ hơn.

Khác với phản bác và phản kháng, PBXH là hoạt động có tính khoa học và tính mục đích rõ ràng, được thực hiện theo phương pháp dân chủ và đồng thuận xã hội nhằm đưa ra sự nhận xét, đánh giá xác đáng, tìm ra những giải pháp tốt nhất để thể hiện chính kiến, kiến nghị có tính xây dựng và trách nhiệm chính trị cao. Vì thế, phản kháng không phải là mục đích và phương pháp của PBXH.

Phản biện xã hội và trưng cầu ý dân. PBXH cũng khác với trưng cầu ý dân ở chỗ, PBXH do các chủ thể xã hội thực hiện theo những mục đích và nội dung cụ thể, phong phú, đa dạng, còn trưng cầu ý dân là việc Nhà nước tổ chức để cử tri cả nước trực tiếp bằng hình thức bỏ phiếu quyết định những vẫn đề quan trọng của đất nước.

Như vậy, chức năng PBXH của MTTQ và các đoàn thể gắn liền với các nguyên tắc: (i) Đại diện ý chí, nguyện vọng nhân dân. (ii)  Bảo đảm tính khách quan, khoa học và thực tiễn. (iii) Không đối kháng quyền lực mà đồng hành, hỗ trợ Nhà nước trong điều hành.

3-1759369995.jpg

Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 có một chương riêng về vai trò của Mặt trận đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, gồm 4 điều. Ở Việt Nam, cơ chế làm chủ, quyền làm chủ của nhân dân đã được Đảng ta chỉ rõ:”Nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp vừa thực hiện quyền dân chủ đại diện là các cơ quan nhà nước, các đại biểu nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn chỉnh qui chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội”. Mặt trận là nhân dân có tổ chức, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, Mặt trận lại là thành viên của hệ thống chính trị (HTCT) có quyền đại diện cho nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Thể chế hóa quyền đại diện của nhân dân, pháp luật nước ta đã có nhiều qui định cụ thể về vai trò đại diện của Mặt trận.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu khái niệm PBXH như sau: PBXH là việc các chủ thể xã hội (MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên; các tổ chức xã hội và cá nhân) nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị một cách khách quan, khoa học, tâm huyết đối với dự thảo chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; các dự thảo văn bản của các cơ quan nhà nước (dự thảo văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án…), góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả của các văn bản; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; phát huy dân chủ và tăng cường đồng thuận xã hội.

Như vậy, PBXH là quá trình đánh giá, góp ý, kiến nghị nhằm hoàn thiện nội dung, hình thức và phương pháp thực thi chính sách, bảo đảm sự phù hợp với thực tiễn, quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan. Với MTTQ và các đoàn thể, phản biện là một hình thức giám sát xã hội đặc thù, mang tính xây dựng, hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng quản trị quốc gia.

Vai trò PBXH là: (i) góp phần phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, là một trong những phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực của mình, tham gia vào các công việc của Nhà nước và xã hội; (ii) là phương thức để nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với việc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước; (iii) góp phần quan trọng xây dựng, hoàn thiện và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nướcđấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Khái niệm và đặc trưng của PBXH được hiểu là quá trình tham gia đóng góp ý kiến, nhận xét, đánh giá, đề xuất giải pháp của Mặt trận và các tổ chức thành viên đối với dự thảo chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật. Có 3 điểm cốt lõi: (i) tính xây dựng, hoàn toàn không đối lập, phủ định mà nhằm hoàn thiện. (ii) Tính khoa học: dựa trên bằng chứng, dữ liệu, luận cứ khách quan. (iii) Tính nhân dân: phản ánh tiếng nói, nguyện vọng và lợi ích của đông đảo các tầng lớp xã hội.

Ý nghĩa của PBXH thể hiện sâu sắc  ở 3 khía cạnh: (i) Đối với Đảng và Nhà nước, giúp chính sách sát thực tiễn, khả thi, tránh rủi ro. (ii) Đối với nhân dân: tạo cơ hội tham gia, củng cố niềm tin. (iii)  Đối với Mặt trận: khẳng định vai trò trung tâm đoàn kết, nâng cao uy tín và trách nhiệm.

2.2. Thực tiễn

Trong những năm qua, thực hiện quy định của Hiến pháp và pháp luật, hoạt động PBXH tiếp tục được hệ thống MTTQVN và các tổ chức thành viên các cấp quan tâm triển khai, góp phần phát huy quyền làm chủ, tham gia vào quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật, các chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước.

Thông qua các hình thức PBXH, hoạt động PBXH ngày càng thực chất, hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy đảng, công tác giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ được đẩy mạnh, ngày càng nền nếp, phát huy vai trò quan trọng trong phát huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Bên cạnh đó, một điểm thuận là các cấp ủy đảng đã quan tâm chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị về giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, chính quyền.

Trong những năm qua, MTTQ và các đoàn thể đã thực hiện phản biện ở nhiều lĩnh vực: (i) Pháp luật và chính sách kinh tế – xã hội: góp ý dự thảo luật, chiến lược phát triển ngành, chính sách thuế, đất đai, an sinh xã hội. (ii) Chính sách môi trường và phát triển bền vững: đóng góp ý kiến vào chiến lược tăng trưởng xanh, ứng phó biến đổi khí hậu. (iii) Chính sách liên quan quyền lợi trực tiếp của người dân: giáo dục, y tế, việc làm, phúc lợi. Cụ thể, MTTQVN và các tổ chức thành viên đã PBXH đối với 47 dự án luật, nghị quyết trong đó, có 17 dự thảo luật tại nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV từ năm 2018 đến năm 2020; 30 dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết tại nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV từ năm 2021 đến năm 2023, như: Dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi); dự án Bộ Luật Lao động (sửa đổi); Dự án Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở; Luật Đất đai (sửa đổi); Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Tổ chức Chính quyền địa phương.

Hoạt động PBXH của MTTQ Việt Nam ngày càng được tăng cường, theo báo cáo nhiệm kỳ Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam khóa IX, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã tổ chức được 21 hội nghị phản biện xã hội. Các tổ chức chính trị - xã hội như: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam đã tổ chức phản biện xã hội đối với 19 dự thảo văn bản. Ủy ban MTTQ Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã chủ trì tổ chức 85.886 cuộc; trong đó cấp tỉnh tổ chức được 6.979 cuộc, cấp huyện đã tổ chức 16.002 cuộc; cấp xã đã tổ chức 62.905 cuộc. Nhiều ý kiến phản biện xã hội đã được các cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu, đánh giá cao, trở thành một kênh thông tin quan trọng, cần thiết giúp Đảng, Nhà nước xem xét, hoàn thiện và ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương.

Trong đó, tăng cường phối hợp trong việc tổ chức lấy ý kiến trong hệ thống MTTQ Việt Nam về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tính đến ngày 28/5/2025, hệ thống MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức thành viên của Mặt trận đã tổ chức 61.791 hội nghị lấy ý kiến. Tổng số ý kiến góp ý vào toàn bộ nội dung của dự thảo Nghị quyết là 51.192.334 ý kiến (trong đó 2.592.002 ý kiến của tổ chức và 48.600.332 ý kiến của cá nhân). Có 49.918.935 ý kiến tán thành (chiếm 98,9%) đối với dự thảo Nghị quyết, 615.420 ý kiến tán thành và đề nghị sửa đổi, hoàn thiện hơn (chiếm 1,1%) đối với dự thảo Nghị quyết. 

Trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp có nội dung liên quan đến tổ chức bộ máy, đến quyền liên quan đến quyền, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hai cơ quan phối hợp rà soát 58 luật51 văn bản của Đảng có liên quan đến tổ chức bộ máy; đến quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nét mới, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác PBXH đối với xây dựng pháp luật, hoàn thiện chính sách là việc đổi mới, nâng cao về chất việc tổ chức hội thảo, tọa đàm, hội nghị phản biện để huy động trí tuệ của các chuyên gia, nhà khoa học, tạo sự đồng thuận trong xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; phòng, chống lợi ích nhóm, tiêu cực, tham nhũng trong công tác xây dựng, thi hành pháp luật.

Với những kết quả trên có thể khẳng định, thời gian qua, MTTQVN và các tổ chức thành viên các cấp đã phát huy vai trò của mình trong việc phát huy dân chủ, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; nhất là kết quả chuyển biến rõ nét trong hoạt động PBXH, đã khẳng định MTTQ Việt Nam thực sự là cơ sở chính trị của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, thực tế đó đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tạo động lực thúc đẩy cải cách, đổi mới hệ thống chính trị; thực hiện cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ liêm chính, phục vụ; thực hiện công khai minh bạch, trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền, nâng cao tinh thần phục vụ Nhân dân của bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Thông qua hoạt động PBXH đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật toàn diện, đồng bộ; thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhân dân với Đảng và Nhà nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhờ có nhiều ý kiến phản biện được tiếp thu, đã giúp giảm rủi ro khi triển khai chính sách. Nâng cao nhận thức của cơ quan soạn thảo về vai trò của kênh tham vấn xã hội. Mở rộng sự tham gia của giới chuyên gia và người dân, từng bước tạo thói quen minh bạch chính sách

3. Thách thức, bài học kinh nghiệm, định hướng và một số đề xuất, kiến nghị

3.1. Về thách thức

Mặc dù đạt được nhiều kết quả, hoạt động PBXH của MTTQVN và các tổ chức thành viên vẫn còn những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, có nơi, có lúc còn lúng túng, có tình trạng né tránh, ngại va chạm. Hoạt động PBXH mới chỉ tập trung ở cấp Trung ương và cấp tỉnh. Việc theo dõi, đôn đốc xử lý kiến nghị sau giám sát có nơi còn chưa kịp thời, thiếu quyết liệt. Ở một số nơi, chưa thực hiện tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Sự chủ động đề xuất, cụ thể hóa vai trò, trách nhiệm của MTTQ Việt Nam thực hiện cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ" phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" chưa kịp thời.

Thực tiễn cho thấy, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn có việc còn thiếu kịp thời trong việc làm rõ những vấn đề mới đặt ra. Vẫn còn một số nơi chưa chủ động trong tham mưu với cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo về công tác Mặt trận, phối hợp với chính quyền để đề ra các giải pháp công tác, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về hoạt động PBXH của MTTQ Việt Nam. Điều kiện hoạt động của MTTQ Việt Nam còn hạn chế, chưa thu hút người có năng lực, trình độ tham gia công tác Mặt trận và đoàn thể, nhất là ở cơ sở. Năng lực và kỹ năng hoạt động của một bộ phận cán bộ Mặt trận có lúc, có nơi, có thời điểm chưa đáp ứng được yêu cầu, chậm cập nhật thông tin, chưa đáp ứng yêu cầu của công tác Mặt trận đặt ra. Một bộ phận cán bộ chưa thực sự tâm huyết với công tác Mặt trận, thiếu gắn bó với Nhân dân, chưa nỗ lực phấn đấu; một số ít thiếu rèn luyện, thiếu bản lĩnh. Một số nơi chưa chú trọng tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở; chưa phát huy tốt vai trò của lực lượng tư vấn, cộng tác viên.

Trước thềm kỷ nguyên mới, hoạt động PBXH chắc chắn gặp phải nhiều thách thức, cụ thể, nhất định, đó là:

- Một là, về nhận thức, năng lực, nguồn lực còn hạn chế: hiện còn một số cán bộ, tổ chức thành viên chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, trách nhiệm trong PBXH, dẫn đến phản biện hình thức, thiếu chiều sâu. Năng lực phân tích chính sách, pháp luật của một số tổ chức thành viên còn hạn chế, khó khăn trong việc đưa ra các góp ý mang tính chiến lược. Đội ngũ cán bộ phản biện chưa đồng đều về trình độ nghiên cứu, phân tích chính sách.

- Hai là, cơ chế phối hợp chưa đồng bộ: Cơ chế phối hợp giữa MTTQVN, các tổ chức thành viên và cơ quan nhà nước đôi khi chưa hiệu quả, dẫn đến phản biện chưa được tiếp nhận hoặc triển khai kịp thời. Thiếu thông tin đầy đủ, minh bạch về các dự án, chính sách, hạn chế khả năng đánh giá và phản biện chính xác.

- Ba là, sức ép từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, cụ thể là một số chính sách phát triển kinh tế - xã hội có tính thời điểm cao, đòi hỏi quyết định nhanh, khiến quá trình phản biện bị hạn chế về thời gian. Sự phức tạp của các dự án đầu tư nước ngoài, yêu cầu hội nhập quốc tế, đòi hỏi phản biện có chuyên môn cao, trong khi nguồn lực cán bộ chưa đáp ứng đầy đủ.

- Bốn là, thách thức từ kỷ nguyên số và truyền thông đa phương tiện, theo đó, mạng xã hội và các kênh thông tin số mở ra cơ hội nhưng cũng tạo thách thức trong việc tiếp nhận, lọc thông tin và phản biện chính xác. Nguy cơ thông tin sai lệch, tin giả ảnh hưởng đến uy tín phản biện và hiệu quả tham mưu.

- Năm là, thách thức về cơ chế và quy trình, hiện một số quy trình phản biện còn mang tính hình thức, thời gian góp ý ngắn, chưa đủ để phân tích sâu. Cơ sở dữ liệu, công cụ phân tích chưa đầy đủ, thiếu ứng dụng mạnh mẽ công nghệ AI và dữ liệu lớn (Big Data).

4-1759369513.jpg

Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố (mới) họp vận hành thử nghiệm mô hình chính quyền địa phương hai cấp

3.2. Về bài học kinh nghiệm

- Thứ nhất, cần gắn kết chặt chẽ giữa PBXH và giám sát nhân dân; PBXH sẽ hiệu quả hơn khi đi đôi với giám sát nhân dân và kiểm tra thực thi chính sách. Việc kết hợp này sẽ giúp phát hiện vấn đề thực tiễn, từ đó đưa ra giải pháp khả thi. Bởi giám sát nhân dân là quá trình tổ chức triển khai thực hiện quy định của pháp luật; còn PBXH được tổ chức thực hiện trong quá trình xây dựng dự thảo các văn bản. Hai hoạt động này phải luôn có mối quan hệ rất mật thiết với nhau và trong nhiều trường hợp chúng đan xen, xâm nhập, hỗ trợ và tương tác với nhau một cách khách quan; có tác động và ảnh hưởng trở lại đối với đời sống nhà nước, đời sống xã hội và mang lại những hiệu ứng thiết thực và hiệu quả. Giám sát nhân dân, giám sát xã hội và PBXH đều được thực hiện thường xuyên, liên tục với nhiều chủ thể xã hội, sẽ là điều kiện, tiền đề, cơ sở, tiếp nối nhau một cách thiết thực, hiệu quả.

- Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia có năng lực PBXH, cần tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực phân tích, đánh giá chính sách, luật pháp và các dự án đầu tư. Sử dụng chuyên gia từ các trường đại học, viện nghiên cứu và các tổ chức nghề nghiệp để hỗ trợ phản biện chuyên sâu.

- Thứ ba, tăng cường cơ chế phối hợp giữa MTTQVN, tổ chức thành viên và các cơ quan nhà nước. Thiết lập cơ chế trao đổi thông tin thường xuyên, minh bạch, đảm bảo phản biện được tiếp nhận và triển khai hiệu quả. Sử dụng nền tảng số, hệ thống dữ liệu chung để chia sẻ thông tin, nâng cao tính chính xác và nhanh chóng trong PBXH.

- Thứ tư, phát huy vai trò của công nghệ và truyền thông số, yêu cầu về ứng dụng công nghệ thông tin, các nền tảng trực tuyến để tiếp nhận, phân tích và tổng hợp ý kiến người dân. Sử dụng công cụ truyền thông đa phương tiện để truyền tải thông điệp phản biện một cách khoa học, chính xác và dễ tiếp nhận.

- Thứ năm, đảm bảo tính đại diện và minh bạch trong phản biện, có nghĩa là PBXH phải dựa trên ý kiến tập thể, đảm bảo tính đại diện của các tầng lớp nhân dân. Các kết quả phản biện nên công khai, minh bạch, tạo niềm tin và thúc đẩy trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước.

3.3. Về định hướng nâng cao vai trò PBXH để góp phần đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, vì mục tiêu “tất cả lợi ích, phụng sự người dân”

Đây là nội dung hết sức quan trọng do đó, cần chủ động có những hoạch định, gợi mở, định hướng, để PBXH chính sách của MTTQ và tổ chức thành viên vừa là nhiệm vụ chính trị, vừa được luật hóa, trở thành một trụ cột trong hệ thống kiểm soát quyền lực mềm của Nhà nước, theo đó cần:

(1) Chuyển đổi từ phản biện thụ động sang phản biện chủ động: Chủ động nắm bắt xu hướng, dự báo vấn đề chính sách sẽ ban hành để chuẩn bị nội dung PBXH từ sớm. Xây dựng bản đồ chính sách để theo dõi các lĩnh vực trọng điểm cần giám sát.

(2) Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số: Xây dựng nền tảng phản biện số với khả năng thu thập ý kiến từ người dân, doanh nghiệp, chuyên gia. Ứng dụng AI trong phân tích dữ liệu chính sách, mô phỏng tác động kinh tế – xã hội. Kết nối cơ sở dữ liệu liên ngành để phản biện có cơ sở khoa học.

(3) Tăng cường sự tham gia của các bên liên quan: Hình thành mạng lưới chuyên gia cố vấn độc lập cho MTTQ và các tổ chức thành viên. Mở rộng kênh đối thoại chính sách với cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp.

(4) Bảo đảm nguyên tắc “tất cả lợi ích”: Mọi ý kiến PBXH phải đặt lợi ích người dân và lợi ích quốc gia – dân tộc làm trung tâm. Đánh giá tác động chính sách dựa trên các chỉ số hạnh phúc, công bằng, bền vững, không chỉ trên GDP.

3.4. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả PBXH trong kỷ nguyên mới

- Thứ nhất, cần tập trung hoàn thiện cơ chế pháp lý và chính sách hỗ trợ: Xây dựng, bổ sung các văn bản hướng dẫn chi tiết về quy trình, trách nhiệm, quyền hạn của MTTQVN và các tổ chức thành viên trong PBXH. Đảm bảo các cơ quan nhà nước bắt buộc tiếp nhận, xử lý phản biện xã hội trong thời gian hợp lý. Tăng thời gian lấy ý kiến đối với các chính sách phức tạp, kết hợp nhiều vòng tham vấn.

- Thứ hai, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ PBXH: Tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về chính sách, pháp luật, quản lý công và kỹ năng truyền thông cho cán bộ MTTQVN và tổ chức thành viên. Khuyến khích hợp tác với các viện nghiên cứu, chuyên gia độc lập, tổ chức nghề nghiệp để tăng tính chuyên nghiệp trong PBXH.

- Thứ ba, ứng dụng công nghệ và nền tảng số trong PBXH: Xây dựng hệ thống thông tin phản biện xã hội trực tuyến, đảm bảo tiếp nhận ý kiến kịp thời, xử lý nhanh chóng và minh bạch. Sử dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn để phân tích ý kiến nhân dân, xác định vấn đề nổi bật, từ đó đề xuất giải pháp hiệu quả. Xây dựng trung tâm phân tích chính sách độc lập trực thuộc MTTQ để cung cấp báo cáo khoa học, số liệu cập nhật.

- Thứ tư, tăng cường phối hợp liên ngành và đối thoại chính sách: Thiết lập cơ chế đối thoại giữa MTTQVN, các tổ chức thành viên, cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp, tạo điều kiện cho phản biện mang tính thực tiễn cao. Tổ chức các hội thảo chuyên đề về các lĩnh vực then chốt như đầu tư công, môi trường, y tế, giáo dục, đảm bảo ý kiến phản biện được tham khảo đầy đủ.

- Thứ năm, thúc đẩy văn hóa phản biện và nâng cao nhận thức cộng đồng: Phổ biến rộng rãi quyền lợi và trách nhiệm tham gia phản biện xã hội đến người dân, tạo sự đồng thuận và trách nhiệm chung. Khuyến khích các tổ chức xã hội, cộng đồng và cá nhân tham gia vào quá trình phản biện, đảm bảo tính đa chiều và thực chất. Tăng cường hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm phản biện chính sách ở các nền dân chủ tham gia, vận dụng phù hợp với điều kiện Việt Nam.

- Thứ sáu, đo lường và đánh giá hiệu quả hoạt động PBXH: Xây dựng chỉ số đánh giá hiệu quả phản biện xã hội, bao gồm tỷ lệ kiến nghị được tiếp nhận, thời gian xử lý và mức độ cải thiện chính sách. Thường xuyên đánh giá, rút kinh nghiệm và điều chỉnh phương thức thực hiện phản biện để phù hợp với yêu cầu phát triển mới. Phát huy vai trò giám sát của báo chí và truyền thông nhằm lan tỏa nội dung phản biện chính sách tới toàn xã hội.

- Thứ bảy, không ngừng đổi mới hoạt động PBXH, lựa chọn nội dung PBXH, bám sát các vấn đề thiết thực với đời sống Nhân dân và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có thẩm quyền trong tiếp nhận, xử lý kết quả phản biện. Tăng cường kết hợp giữa giám sát việc thực hiện các chương trình phối hợp, công tác dân vận và phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ. Tổ chức các cuộc đối thoại, tiếp xúc định kỳ giữa cấp ủy, chính quyền với Nhân dân để lắng nghe và phản hồi kịp thời. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ trong tham mưu, góp ý xây dựng thể chế, chính sách và hoàn thiện pháp luật. Tổ chức phản biện các dự thảo văn bản lớn gắn với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Phát huy vai trò của trí thức, chuyên gia, doanh nhân, cán bộ hưu trí, hội đồng tư vấn trong tham gia phản biện chính sách.

-  Đặc biệt, ngày 30/4/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đây là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược và là một "đột phá của đột phá" nhằm đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên số và hội nhập quốc tế. Nghị quyết này đặt mục tiêu xây dựng khuôn khổ pháp lý hiện đại, hiệu quả, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội, khoa học công nghệ, đồng thời bảo vệ quyền con người và doanh nghiệp.

Mục tiêu chính của Nghị quyết 66 tập trung ở 5 điểm chính đó là: (i) Tháo gỡ "điểm nghẽn" về thể chế, giải quyết các rào cản pháp lý, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, minh bạch và hiệu quả. (ii) Tạo động lực cho phát triển, xây dựng hệ thống pháp luật hiện đại, linh hoạt để phục vụ đắc lực cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. (iii) Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số: Xây dựng hành lang pháp lý cho các vấn đề mới, phi truyền thống, ứng dụng công nghệ số và AI trong xây dựng, thi hành pháp luật. (iv) Đảm bảo công bằng và hiệu quả: Thực thi pháp luật công bằng, nghiêm minh, nhất quán và kịp thời, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân và doanh nghiệp. (v) Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hiện đại và hiệu quả, phục vụ nhân dân. 

Vậy vai trò, trách nhiệm PBXH của MTTQVN và các tổ chức thành viên trong thực thi Nghị quyết số 66 là gì? Về bản chất, với tư cách là cầu nối, kênh kết nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, Mặt trận chính là nơi hội tụ, khơi gợi ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến, trí tuệ, tâm huyết của các tầng lớp nhân dân, các chuyên gia, nhà khoa học, đội ngũ trí thức. Thông qua đó, Mặt trận có thể đề xuất cơ chế, chính sách, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, sát thực tiễn, mang hơi thở cuộc sống, phản ánh ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Triển khai thực thi Nghị quyết số 66-NQ/TW còn là cơ hội để MTTQVN khẳng định vai trò trung tâm đoàn kết, đại diện và bảo vệ quyền lợi nhân dân. Thông qua phản biện, Mặt trận vừa góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật, vừa tạo sự đồng thuận, vừa bảo đảm nghị quyết đi vào cuộc sống một cách hiệu quả, bền vững.

Muốn làm được điều đó, Mặt trận cần đổi mới phương thức phản biện, xây dựng cơ chế khoa học, phát huy sức mạnh của các tổ chức thành viên và toàn xã hội. Chỉ khi ấy, phản biện xã hội mới thực sự trở thành “điểm tựa niềm tin” cho Đảng, Nhà nước và nhân dân trong hành trình góp phần tạo sự đồng bộ, toàn diện, hiệu quả của hệ thống pháp luật, trở thành động lực chủ yếu, nền tảng cốt lõi cho phát triển đất nước. Pháp luật phải thực sự “đứng trên mảnh đất thực tiễn của Việt Nam”, tiếp thu có chọn lọc giá trị tinh hoa của nhân loại, bảo đảm tính hệ thống, nắm bắt mọi cơ hội, mở đường, khơi thông mọi nguồn lực, đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ cho phát triển, tạo dư địa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế “hai con số”, nâng cao đời sống của Nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước.

Bằng lợi thế và khả năng tập hợp sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam, MTTQVN và các tổ chức thành viên xác định trách nhiệm, sứ mệnh cao nhất thông qua hoạt động PBXH để góp phần thúc đẩy quá trình về đích mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi với cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, nhất quán, bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan sau sắp xếp tổ chức bộ máy, tháo gỡ vướng mắc phát sinh từ thực tiễn, mở đường cho kiến tạo phát triển, huy động mọi người dân và doanh nghiệp tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội để đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những “điểm nghẽn” do quy định pháp luật. Năm 2027, hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp luật bảo đảm cơ sở pháp lý đồng bộ cho hoạt động của bộ máy nhà nước theo mô hình chính quyền 3 cấp. Năm 2028, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, góp phần đưa môi trường đầu tư của Việt Nam nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN.

5. Kết luận

Trong kỷ nguyên mới, khi Việt Nam đang hội nhập sâu rộng và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, vai trò của MTTQVN và các tổ chức thành viên trong thực thi nhiệm vụ PBXH càng trở nên quan trọng. PBXH không chỉ là quyền lợi chính trị mà còn là phương tiện để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người dân, đồng thời củng cố niềm tin xã hội vào cơ quan công quyền.

Hoạt động này, không chỉ là một nhiệm vụ mang tính pháp lý, chính trị, mà còn là thước đo năng lực đồng hành cùng Nhà nước kiến tạo phát triển, bảo đảm “tất cả lợi ích” và phụng sự nhân dân. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, dù đã đạt nhiều kết quả, nhưng còn tồn tại không ít thách thức về nguồn lực, phương thức và cơ chế phối hợp. Để vượt qua, cần đồng thời đổi mới tư duy phản biện, hiện đại hóa công cụ, mở rộng sự tham gia xã hội và củng cố nền tảng pháp lý. Chỉ khi đó, PBXH mới thật sự trở thành “người gác cổng” thông minh, góp phần bảo đảm chính sách bền vững, hài hòa lợi ích và thúc đẩy tiến bộ xã hội.

TS. Phạm Thu Hương (UVBCH, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo và Dân vận Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương)

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin