Những vấn đề cần quan tâm để Nghị quyết 66-NQ/TW trở thành tư duy thể chế đột phá trong kỷ nguyên phát triển mới trong giai đoạn hiện nay

Trong phiên họp ngày 5/6/2025 tại Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Công tác hoàn thiện thể chế pháp luật phải mở đường cho kiến tạo phát triển”. Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới được ban hành trong giai đoạn vừa qua được đánh giá “Đột phá của đột phá” về xây dựng và thi hành pháp luật. Từ việc đi vào phân tích và luận giải các vấn đề có liên quan đến: tính khách quan của Nghị quyết số 66-NQ/TW; những điểm nhấn nổi bật của Nghị quyết 66-NQ/TW trong bối cảnh hiện nay; vấn đề cơ bản đặt ra hiện nay cho việc triển khai Nghị quyết 66-NQ/TW, bài viết đã có sự liên hệ tại TP. Hồ Chí Minh.
1-1758167791.jpg

Quang cảnh  Hội thảo khoa học: “Đưa Nghị quyết 66-NQ/TW vào cuộc sống – Yêu cầu, cơ chế và giải pháp thực thi” do Viện IBLA và Tạp chí Pháp lý tổ chức ngày 16/9 tại TP.Hồ Chí Minh

1. Dẫn nhập

Nghị quyết 66-NQ/TW (Được Bộ Chính trị ban hành ngày 30/4/2025) đã đánh dấu một bước chuyển mang tính chiến lược trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật ở Việt Nam). Cùng với Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết 59-NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW tạo bệ phóng cho sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Từ góc độ thực tiễn, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng cắt giảm thủ tục hành chính, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo và bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế là một yêu cầu tất yếu để hội nhập và phát triển. Về bản chất, tính cấp thiết của việc đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật được thể hiện rõ qua những hạn chế và bất cập mà Nghị quyết đã chỉ ra. Về mặt khoa học pháp lý, một hệ thống pháp luật hiệu quả cần phải đồng bộ, công khai, minh bạch và dễ tiếp cận. Tuy nhiên, thực tế cho thấy pháp luật Việt Nam vẫn còn những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, chưa rõ ràng, gây cản trở cho việc thực thi và đổi mới sáng tạo. Điều này tạo ra "điểm nghẽn" pháp lý, làm giảm hiệu quả điều hành của bộ máy nhà nước và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Việc ra đời Nghị quyết 66 có ý nghĩa quan trọng trong việc tiếp nối để thực hiện một trong ba đột phá chiến lược mà trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra, trong đó đột phá chiến lược về mặt thể chế được xếp ở vị trí hàng đầu. Quá trình phát triển của xã hội và kinh tế nói chung trong thời gian qua cũng đã thấy rõ những điểm yếu, điểm hạn chế, bất cập của quá trình xây dựng pháp luật (điểm nghẽn về mặt thể chế). Nghị quyết 66 có rất nhiều nội dung đổi mới cho cả khâu xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật. Vì thế, Nghị quyết 66-NQ/TW ra đời đã đem lại ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc trong giai đoạn hiện nay.

2. Nội dung

2.1. Tính khách quan của Nghị quyết 66-NQ/TW

Nghị quyết số 66-NQ/TW do Bộ Chính trị ban hành không chỉ phản ánh yêu cầu cấp bách của thực tiễn phát triển đất nước trong bối cảnh mới, mà còn thể hiện tầm nhìn dài hạn về hoàn thiện thể chế trong kỷ nguyên hội nhập sâu rộng và chuyển đổi số toàn cầu. Tính khách quan của việc ban hành Nghị quyết này về cơ bản thể hiện ở một số nội dung sau:

Thứ nhất, pháp luật là trụ cột của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Nghị quyết 66 xác lập khuôn khổ chỉ đạo toàn diện nhằm đưa công tác pháp luật trở thành “đột phá của đột phá” trong chiến lược phát triển quốc gia. Hệ thống pháp luật không đơn thuần là tập hợp các quy phạm điều chỉnh hành vi, mà còn là nền tảng để bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh. Việc Bộ Chính trị trực tiếp định hướng và giao trách nhiệm triển khai tới toàn bộ hệ thống chính trị thể hiện nhận thức sâu sắc rằng pháp luật là trụ cột của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (NNPQXHCN), là công cụ quản trị quốc gia hiệu lực và hiệu quả. Trong cấu trúc của NNPQXHCN, pháp luật giữ vị trí trụ cột vì nó vừa là công cụ quản trị tối cao, vừa là bảo đảm nền tảng cho quyền lực nhà nước được vận hành hợp hiến, hợp pháp và minh bạch. Pháp luật quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm, giới hạn và cơ chế kiểm soát quyền lực, qua đó ngăn ngừa sự tùy tiện trong quản lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đồng thời tạo khuôn khổ pháp lý ổn định cho phát triển kinh tế – xã hội. Tính khách quan của vai trò này xuất phát từ bản chất của pháp luật: nó không phụ thuộc ý chí cá nhân mà là sự kết tinh ý chí chung của xã hội, được thể chế hóa thông qua quy trình dân chủ và minh bạch. Trong NNPQXHCN, Đảng lãnh đạo nhưng pháp luật giữ vai trò “thước đo” và “hành lang” cho mọi quyết định chính trị, bảo đảm nguyên tắc “mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật”. Nghị quyết 66-NQ/TW thể hiện rõ nhận thức này khi coi xây dựng và thi hành pháp luật là khâu then chốt để hoàn thiện thể chế. Việc đặt mục tiêu đồng bộ, minh bạch và chuẩn mực quốc tế cho hệ thống pháp luật không chỉ đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại mà còn khẳng định pháp luật là nền tảng khách quan của NNPQXHCN. Điều này đảm bảo rằng mọi đổi mới, phát triển đều được thực hiện trong khuôn khổ pháp lý rõ ràng, ổn định và khả thi — từ đó củng cố lòng tin xã hội, nâng cao hiệu quả quản trị, và bảo vệ lợi ích chung của quốc gia.

Thứ hai, Nghị quyết số 66-NQ/TW ra đời là điều cần thiết đối với người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế về một môi trường pháp lý minh bạch, ổn định, dễ dự đoán

Nghị quyết 66-NQ/TW ra đời trong bối cảnh Việt Nam đang đối diện nhiều thách thức: tốc độ biến đổi của môi trường kinh tế – xã hội, yêu cầu hội nhập quốc tế, tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0, và đòi hỏi từ người dân, doanh nghiệp về một môi trường pháp lý minh bạch, ổn định, dễ dự đoán. Thực tiễn thời gian qua cho thấy vẫn tồn tại những “điểm nghẽn” thể chế: chồng chéo, mâu thuẫn pháp luật; thủ tục hành chính phức tạp; cơ chế thực thi thiếu đồng bộ. Nếu không có giải pháp mang tính hệ thống, các điểm nghẽn này sẽ cản trở nghiêm trọng mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững. Nghị quyết 66 đặt mục tiêu đến 2030 xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, công bằng, minh bạch, hiệu lực cao, và đến 2045 đạt chuẩn mực quốc tế, phục vụ một nền kinh tế phát triển, thu nhập cao. Điểm nổi bật là các giải pháp đột phá: tăng đầu tư tài chính cho công tác pháp luật (tối thiểu 0,5% tổng chi ngân sách), ứng dụng mạnh mẽ chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo, cùng cơ chế tổ chức mới với Ban Chỉ đạo Trung ương do Tổng Bí thư đứng đầu. Đây là những yếu tố thể hiện sự quyết tâm chính trị cao và cách tiếp cận hiện đại.

Từ góc độ pháp lý, một môi trường pháp lý minh bạch, ổn định, dễ dự đoán là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể trong xã hội, đồng thời thúc đẩy hoạt động kinh tế diễn ra an toàn, hiệu quả. Nghị quyết 66-NQ/TW ra đời đáp ứng trực tiếp yêu cầu này trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng, đối mặt với biến động nhanh của thị trường và yêu cầu đổi mới quản trị quốc gia. Đối với người dân, hệ thống pháp luật minh bạch giúp họ dễ dàng tiếp cận, hiểu và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Tính ổn định của pháp luật bảo đảm rằng các quy định không thay đổi tùy tiện, từ đó tạo niềm tin vào công lý và bảo vệ hiệu quả các quyền hiến định. Đối với doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài, tính dự đoán của pháp luật là yếu tố quyết định trong việc hoạch định chiến lược, quản trị rủi ro và cam kết vốn dài hạn. Khi quy định pháp luật rõ ràng, nhất quán, thủ tục hành chính minh bạch, chi phí tuân thủ sẽ giảm, qua đó nâng cao sức cạnh tranh và khả năng mở rộng sản xuất – kinh doanh. Đối với nền kinh tế, môi trường pháp lý chất lượng cao là động lực thu hút đầu tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hội nhập thị trường quốc tế. Nghị quyết 66 đặt trọng tâm vào việc loại bỏ xung đột pháp luật, giảm thủ tục rườm rà, và chuẩn hóa quy trình ban hành – thực thi pháp luật. Điều này giúp tạo hành lang pháp lý vững chắc, dự đoán được, qua đó nâng cao năng lực chống chịu và thích ứng của nền kinh tế trước các biến động toàn cầu.

Như vậy, việc ra đời Nghị quyết 66-NQ/TW vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa là yêu cầu tất yếu để Việt Nam nâng cấp năng lực thể chế, đáp ứng các mục tiêu phát triển trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết 66-NQ/TW ra đời không chỉ giải quyết những bất cập hiện hữu, mà còn tạo hành lang pháp lý tiên tiến, thích ứng nhanh với biến động toàn cầu, củng cố vững chắc nền tảng Nhà nước pháp quyền và phát triển quốc gia bền vững.

2.2. Những điểm nhấn nổi bật của Nghị quyết 66-NQ/TW trong bối cảnh hiện nay

Với các nội dung đã trình bày và phân tích ở trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng, Nghị quyết 66-NQ/TW kết hợp giữa yêu cầu thể chế-chính trị và giải pháp kỹ thuật; yếu tố nền tảng để biến chủ trương thành thực tiễn là đảm bảo nguồn lực, năng lực chuyên môn và hạ tầng số đi kèm cơ chế giám sát hiệu quả. Nghị quyết khẳng định vị trí lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác pháp luật, tạo sự thống nhất chính trị và định hướng chiến lược cho quá trình thể chế hóa chủ trương, chính sách. Về mặt khoa học chính trị, đây là yếu tố bảo đảm tính nhất quán trong hệ thống pháp luật; về thực tiễn, nó yêu cầu cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Đảng, Quốc hội và Chính phủ để tránh chồng chéo. Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng đặt kiểm soát quyền lực và phòng, chống lợi ích nhóm là nhiệm vụ trọng yếu, phản ánh nhu cầu khắc phục sai lệch trong quy trình soạn thảo, ban hành văn bản. Về pháp lý, điều này gia tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình; về thực tiễn, giảm rủi ro chính sách bị lợi dụng. Ngoài ra, Nghị quyết nhấn mạnh sự tham gia của xã hội, vai trò giám sát của Mặt trận tổ quốc - tăng tính đại diện, kiểm chứng thực tiễn và nâng cao chất lượng pháp luật. Nghị quyết lần này cũng thể hiện rõ việc chuyển đổi nhận thức đó là: pháp luật là công cụ thúc đẩy phát triển, không chỉ quản lý, làm thay đổi mục tiêu xây dựng pháp luật. Trước khi Nghị quyết 66-NQ/TW được ban hành, nguồn ngân sách dành cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn khiêm tốn. Cụ thể: Năm 2022: khoảng 75 tỷ đồng, năm 2023: khoảng 100 tỷ đồng, năm 2024: khoảng 110 tỷ đồng. Tuy nhiên, Nghị quyết 66-NQ/TW đã xác định việc đầu tư cho công tác xây dựng chính sách, pháp luật là đầu tư cho phát triển, nhằm tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đối với kết quả triển khai Nghị quyết tại các địa phương, chúng ta có thể kể đến một trong những địa phương tiêu biểu là Lâm Đồng. Theo đó, việc tổ chức quán triệt Nghị quyết số 66-NQ/TW đã được tỉnh Lâm Đồng triển khai đến 142 điểm cầu từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở. UBND tỉnh đã ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW và Chương trình hành động của Chính phủ kèm theo Nghị quyết số 140/NQ-CP. Công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra, rà soát văn bản qui phạm pháp luật được thực hiện nghiêm túc, chất lượng văn bản ngày càng được nâng cao. Tại Thái Nguyên, ban chỉ đạo tỉnh đã tổ chức phiên họp chuyên đề để đánh giá tình hình triển khai thi hành Nghị quyết số 66-NQ/TW sau 3 tháng. Các cơ quan, đơn vị đã bám sát Nghị quyết, xử lý kịp thời những vướng mắc tồn đọng, góp phần tạo sự thông suốt trong tổ chức và thực thi.

Quan điểm của người viết cho rằng, điểm nhấn quan trọng nhất là việc đầu tư nguồn lực (tài chính, nhân lực), thúc đẩy chuyển đổi số và cơ chế chính sách đặc thù cho công tác xây dựng – thi hành pháp luật. Bởi vì, về bản chất, chất lượng thể chế phụ thuộc trực tiếp vào năng lực soạn thảo, năng lực phân tích chính sách và cơ sở dữ liệu pháp lý; Cụ thể, dưới góc độ tài chính: Đầu tư tài chính đầy đủ và kịp thời sẽ giúp công tác thi hành pháp luật được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; Nhân lực: Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định để xây dựng các chính sách, pháp luật có tầm nhìn, tiệm cận chuẩn mực quốc tế và phù hợp với thực tiễn. Các chính sách đặc thù giúp thu hút và giữ chân các chuyên gia giỏi vào khu vực công; Chuyển đổi số: Ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo giúp nâng cao tính dân chủ, khoa học và chuyên nghiệp của quy trình lập pháp, đồng thời giúp việc phổ biến, giáo dục pháp luật trở nên hiệu quả hơn; Cơ chế đặc thù: Cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội giúp tạo đột phá trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho những vấn đề mới và thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới. Tất cả những điều nêu trên góp phần quan trọng tác động trực tiếp đến hiệu quả, tính khách quan và khả thi của hệ thống pháp luật, tháo gỡ "điểm nghẽn" và đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững.

2.3. Vấn đề cơ bản đặt ra hiện nay cho việc triển khai Nghị quyết 66-NQ/TW

Vấn đề đặt ra hiện nay cho việc triển khai Nghị quyết 66-NQ/TW trong thực tiễn hiện nay về cơ bản liên quan đến việc giải quyết những hạn chế và bất cập còn tồn tại trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Điều này thể hiện qua: Chất lượng pháp luật: Hệ thống pháp luật vẫn chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Vẫn còn tồn tại các quy định chồng chéo, mâu thuẫn và chưa rõ ràng, cản trở việc thực thi, đổi mới sáng tạo và thu hút nguồn lực đầu tư. Tư duy lập pháp: Tư duy xây dựng pháp luật trong một số lĩnh vực còn thiên về quản lý , chưa tạo ra khuôn khổ pháp lý thuận lợi để thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới. Chậm trễ trong thể chế hóa: Một số chủ trương, định hướng của Đảng chưa được thể chế hóa một cách kịp thời và đầy đủ. Ngoài ra, việc phân cấp, phân quyền còn chưa đủ mạnh và thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà. Trong đó, theo quan điểm của người viết là vấn đề tổ chức thực thi: Việc tổ chức thực thi pháp luật vẫn là "khâu yếu", thiếu cơ chế phản ứng chính sách kịp thời và hiệu quả. Ở khía cạnh này,  trong khoa học pháp lý, năng lực tổ chức và thực thi pháp luật là tổng hòa của các yếu tố: bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ, quy trình nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ và cơ chế phối hợp nhằm bảo đảm pháp luật được áp dụng thống nhất, hiệu quả trên phạm vi toàn quốc. Tính đồng đều trong năng lực này là điều kiện tiên quyết để nguyên tắc “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật” trở thành hiện thực. Khi năng lực thực thi không đồng nhất, cùng một quy định pháp luật có thể bị áp dụng khác nhau tùy địa phương, làm suy giảm hiệu lực và uy tín của hệ thống pháp luật. Thực tế, ở Việt Nam hiện nay, thực tiễn cho thấy sự chênh lệch rõ rệt về năng lực này giữa các bộ, ngành và địa phương. Một số nguyên nhân chính như:

Một là, đội ngũ cán bộ pháp chế chưa đồng bộ về trình độ và kỹ năng

Nhiều địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, còn thiếu cán bộ được đào tạo chuyên sâu về pháp luật, kỹ năng phân tích chính sách, đánh giá tác động và kỹ thuật lập pháp. Năng lực cập nhật và vận dụng các quy định mới, đặc biệt trong lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, còn hạn chế. Bên cạnh đó, về trình độ chuyên môn, không phải tất cả cán bộ pháp chế đều được đào tạo bài bản về luật học; ở nhiều địa phương, cán bộ kiêm nhiệm công tác pháp chế nhưng chuyên môn gốc thuộc lĩnh vực khác, dẫn đến hạn chế trong việc phân tích, lập luận và vận dụng quy định pháp luật. Điều này dễ gây ra tình trạng áp dụng pháp luật thiếu chuẩn xác hoặc mang tính hình thức. Về kỹ năng, nhiều cán bộ chưa thành thạo các phương pháp đánh giá tác động chính sách (RIA), kỹ thuật lập pháp, hay phân tích pháp lý chuyên sâu. Năng lực sử dụng công nghệ pháp lý, khai thác cơ sở dữ liệu và công cụ số hỗ trợ công tác pháp luật cũng chưa đồng đều, đặc biệt ở cấp cơ sở và vùng khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu gồm: cơ chế tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng chưa thống nhất; điều kiện làm việc và đãi ngộ chưa đủ hấp dẫn để thu hút nhân sự chất lượng cao; cơ hội tiếp cận kiến thức, kỹ năng mới còn hạn chế. Hệ quả là chất lượng tham mưu, soạn thảo và thực thi pháp luật không đồng đều giữa các khu vực, ảnh hưởng trực tiếp tới tính thống nhất và hiệu lực của hệ thống pháp luật. Khắc phục vấn đề này là một yêu cầu trọng tâm mà Nghị quyết 66-NQ/TW đã đặt ra, thông qua chuẩn hóa năng lực, nâng cao đào tạo và áp dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động pháp chế.

Hai là, quy trình, phương pháp thực thi chưa thống nhất và nguồn lực hỗ trợ thực thi còn bất cân xứng

Hệ thống hướng dẫn thi hành ở nhiều bộ, ngành chưa kịp thời, thậm chí có điểm chưa rõ ràng, dẫn tới mỗi địa phương vận dụng theo cách riêng. Cơ chế phối hợp liên ngành còn rời rạc, chưa có nền tảng số dùng chung để chia sẻ thông tin, dữ liệu pháp lý. Bên cạnh đó, các địa phương kinh tế mạnh thường có điều kiện đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ, và đào tạo cán bộ tốt hơn, trong khi nhiều địa phương khó khăn phải phụ thuộc vào hỗ trợ từ Trung ương. Hạ tầng chuyển đổi số phục vụ công tác pháp luật chưa đồng đều, làm hạn chế việc áp dụng các công cụ hiện đại như cơ sở dữ liệu pháp luật, phân tích dữ liệu phục vụ thi hành.

Thực tiễn Việt Nam hiện nay cho thấy, ở nhiều lĩnh vực, hướng dẫn thi hành do các bộ, ngành ban hành chưa đồng bộ, đôi khi chậm so với thời điểm luật, nghị định có hiệu lực, hoặc còn mâu thuẫn giữa các văn bản cùng cấp. Ví dụ điển hình: Luật Đất đai sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/8/2024, tuy nhiên, nhiều địa phương chưa kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn thi hành. Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, một số tỉnh như Hải Phòng, Lạng Sơn, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Bến Tre, Sóc Trăng mới ban hành từ 2 đến 5 trên tổng số 20 nội dung được giao trong Luật. Điều này đã ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân và doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả triển khai chính sách mới. Điều này dẫn đến tình trạng mỗi địa phương tự diễn giải và áp dụng khác nhau. Phương pháp tổ chức thực thi cũng thiếu chuẩn hóa: từ khâu phổ biến pháp luật, tiếp nhận – xử lý hồ sơ, đến giám sát, thanh tra, kiểm tra, khiến chất lượng thực thi không ổn định. Ngoài ra, nguồn lực hỗ trợ thực thi pháp luật còn bất cân xứng giữa các địa phương. Những tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế phát triển thường được đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ và nguồn nhân lực pháp luật đầy đủ hơn, trong khi nhiều địa phương khó khăn phải hoạt động trong điều kiện thiếu thốn. Hạ tầng chuyển đổi số và cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia chưa được triển khai đồng bộ, dẫn tới hạn chế trong chia sẻ thông tin, tra cứu, và giám sát thi hành pháp luật. Chính sự thiếu thống nhất trong quy trình và chênh lệch nguồn lực không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước mà còn làm suy giảm niềm tin của người dân và doanh nghiệp. Giải pháp là cần chuẩn hóa toàn bộ quy trình thực thi trên phạm vi cả nước, đồng thời đầu tư hạ tầng và phân bổ nguồn lực theo hướng thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, bảo đảm mọi công dân đều được thụ hưởng pháp luật một cách bình đẳng và hiệu quả.

2.4. Liên hệ tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay

Cơ hội

Việt Nam đang chứng kiến một sự thay đổi bước ngoặt trong việc thảo luận, sửa đổi, ban hành chính sách, pháp luật. Điều này góp phần quan trọng trong việc giúp giải quyết nhanh chóng, ngay lập tức các vấn đề cấp thiết của người dân, doanh nghiệp. Chính vấn đề này, đòi hỏi TP. Hồ Chí Minh (TPHCM) là địa phương lớn sau sáp nhập, có nhiều doanh nghiệp hoạt động cần nắm bắt nhanh, hiểu sâu sắc hơn về các chính sách, luật pháp liên quan đến hoạt động của mình. Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới được đánh giá “Đột phá của đột phá” về xây dựng và thi hành pháp luật.

Thách thức

Là đầu tàu kinh tế, TPHCM thường xuyên đối mặt với những vấn đề mới mẻ của đô thị lớn, như quản lý kinh tế số, phát triển hạ tầng thông minh, hoặc những mô hình kinh doanh chưa có tiền lệ. Nếu không có tư duy lập pháp kiến tạo, các quy định sẽ trở thành rào cản. Ví dụ, việc thí điểm các mô hình xe công nghệ hay quản lý dịch vụ chia sẻ cần có cơ chế pháp lý linh hoạt để không kìm hãm sự phát triển của các mô hình kinh tế mới.

2-1758167799.jpg

Với vai trò là trung tâm công nghệ, TP.HCM có đầy đủ tiềm lực để đi đầu trong việc xây dựng các nền tảng số hoá pháp luật (ảnh minh hoạ)

Giải pháp

Với vai trò là trung tâm công nghệ, TPHCM có đầy đủ tiềm lực để đi đầu trong việc xây dựng các nền tảng số hóa pháp luật. Việc áp dụng các phần mềm chuyên dụng để quản lý hồ sơ, kiểm tra thủ tục hành chính tại các sở, ban, ngành, cũng như việc công khai quy trình, thủ tục hành chính trên nền tảng số sẽ giúp người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, giám sát, từ đó nâng cao tính minh bạch và công bằng trong quá trình thi hành pháp luật. Ngoài ra, TPHCM còn có một đội ngũ luật sư, chuyên gia pháp lý và các cơ sở đào tạo luật hàng đầu cả nước. Việc hợp tác giữa các cơ quan nhà nước với các trường đại học, hiệp hội nghề nghiệp để tham vấn, góp ý và đào tạo nhân sự sẽ nâng cao chất lượng lập pháp và thực thi. Với lợi thế về nguồn nhân lực trí thức và hạ tầng giáo dục, TPHCM có thể xây dựng Trung tâm đào tạo pháp chế vùng để cung ứng cán bộ cho toàn miền Nam, đồng thời thí điểm mô hình đánh giá năng lực cán bộ pháp chế gắn với kết quả thực thi. Với tư cách là công dân của TPHCM, gắn bó gần 30 năm học tập, sinh sống và làm việc tại Thành phố này, chúng tôi mong muốn TPHCM sớm triển khai cụ thể và hiệu quả, thiết thực cổng dữ liệu pháp luật đô thị thông minh tích hợp với dịch vụ công trực tuyến. Điều này sẽ vừa nâng cao kỷ luật pháp chế, vừa tạo môi trường đầu tư minh bạch, ổn định cho doanh nghiệp và người dân. Hơn nữa, với đặc thù là một đô thị lớn, việc xây dựng cơ chế giám sát thực thi pháp luật độc lập, minh bạch thông qua các kênh công nghệ sẽ giúp giảm thiểu tình trạng tham nhũng, tiêu cực và bảo đảm môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng cho các doanh nghiệp./.

3. Kết luận

Sự ra đời của Nghị quyết 66-NQ/TW đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hoàn thiện thể chế tại Việt Nam, đưa công tác xây dựng và thi hành pháp luật lên một tầm cao chiến lược. Đây không chỉ là một văn kiện chính trị, mà còn là một luận điểm khoa học sắc bén, phản ánh tính cấp thiết và khách quan của yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Tính cấp thiết của Nghị quyết xuất phát từ những "điểm nghẽn" pháp lý đã tồn tại, bao gồm sự thiếu đồng bộ, chồng chéo của hệ thống pháp luật hiện hành và sự yếu kém trong khâu tổ chức thực thi. Những rào cản này đã kìm hãm sự phát triển của một nền kinh tế thị trường năng động. Nghị quyết đã nhận diện và đưa ra mục tiêu cụ thể, rõ ràng: đến năm 2030, Việt Nam phải có một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi, tạo nền tảng vững chắc cho việc trở thành một nước có thu nhập cao vào năm 2045. Bản chất, Nghị quyết lần này đã thể hiện tính khách quan sâu sắc khi từ bỏ tư duy "không quản được thì cấm" và chuyển sang tư duy "kiến tạo", lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Điều này là hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển của một nền kinh tế hội nhập, đòi hỏi sự linh hoạt và khả năng đổi mới sáng tạo.

TP.HCM là một trung tâm kinh tế quan trọng và lớn nhất của cả nước. Việc triển khai Nghị quyết này không chỉ là nhiệm vụ mà còn là cơ hội bứt phá. TP.HCM cần đi đầu trong việc đổi mới tư duy lập pháp, mạnh dạn thí điểm các cơ chế, chính sách đặc thù, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong quản lý và hành chính công. Nền tảng pháp lý vững chắc, minh bạch sẽ giúp TP.HCM thu hút “phượng hoàng” để đầu tư chất lượng cao, thúc đẩy kinh tế số và tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng, lành mạnh, xứng đáng với vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước. Kết quả thực thi Nghị quyết 66-NQ/TW tại TP.HCM sẽ là một mô hình thực tiễn quý báu để nhân rộng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, tạo điều kiện và tiền đề cần thiết, quan trọng để Việt Nam vươn mình trong xu thế kỷ nguyên mới./.

--------------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. (2025, 30 tháng 4). Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Hà Nội: Văn phòng Trung ương Đảng.

2. Bộ Tư pháp. (2025). Đột phá thể chế từ Nghị quyết 66-NQ/TW: Kỳ vọng mới của cộng đồng doanh nghiệp. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2025, từ https://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2713

3. Chính phủ. (2025). Chính phủ thực hiện nghiêm Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2025, từ https://www.mof.gov.vn/bo-tai-chinh/lanh-dao-chi-dao-1/chinh-phu-thuc-hien-nghiem-nghi-quyet-so-66-nqtw-cua-bo-chinh-tri

4. Huỳnh Trung Hậu. (2025). Nội dung cốt lõi của Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Truy cập từ https://dhcsnd.edu.vn/noi-dung-cot-loi-cua-nghi-quyet-so-66-nqtw-ve-doi-moi-cong-tac-xay-dung-va-thi-hanh-phap-luat-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-dat-nuoc-trong-ky-nguyen-moi

5. Lê Sơn. (2022). Hoàn thiện tổ chức pháp chế bộ, ngành, địa phương đáp ứng tình hình mới. Báo Chính phủ. Truy cập từ https://baochinhphu.vn/hoan-thien-to-chuc-phap-che-bo-nganh-dia-phuong-dap-ung-tinh-hinh-moi-10222033112004304.htm

6. Thủ tướng phê bình các địa phương chậm trễ ban hành văn bản hướng dẫn Luật Đất đai. (2024). Xây dựng chính sách. Truy cập từ https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/thu-tuong-phe-binh-cac-tinh-thanh-pho-cham-ban-hanh-cac-van-ban-huong-dan-luat-dat-dai-119241010152525004.htm

7. Trần Mai Ước. (2021). Về tính năng động sáng tạo của TP Hồ Chí Minh. Trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học gia “Xây dựng lối sống nghĩa tình tại TP Hồ Chí Minh” (tr. 166-178). NXB Thuận Hóa.

8. Trần Mai Ước. (2024). Tác động của Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ đến định hướng phát triển ngành công nghiệp vùng Đông Nam Bộ. Trong Kỷ yếu HTKH “Quản lý hạ tầng kỹ thuật đáp ứng yêu cầu chuỗi cung ứng hàng hóa phục vụ phát triển công nghiệp vùng Đông Nam Bộ”. Trường Đại học Mở TPHCM.

9. UBND Lâm Đồng, Sở Tư pháp tỉnh Lâm Đồng. (2025). Báo cáo số 181/BC-STP về tình hình triển khai Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Báo cáo số 181/BC-STP, ngày 5 tháng 6 năm 2025.

PGS.TS. Trần Mai Ước (Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh)

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin