Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị (2025) đánh dấu bước ngoặt trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, coi đây là “đột phá của đột phá” để tạo động lực phát triển đất nước. Nghị quyết số 66-NQ/TW xác định lộ trình tháo gỡ điểm nghẽn pháp luật, hoàn thiện thể chế, nâng cao tính minh bạch và đồng bộ, hướng đến mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045. Bài viết đưa ra và phân tích các cơ chế cơ bản và thiết yếu để chuyển hóa tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW thành hành động hiệu quả trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Theo đó, cơ chế thiết yếu cần tập trung là: Chuyển đổi tư duy lập pháp từ “quản lý” sang “kiến tạo phát triển”; thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương chuyên biệt; bảo đảm cơ chế tài chính và ứng dụng công nghệ số; tăng cường đánh giá tác động chính sách (RIA).

Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị. (Ảnh: ĐĂNG KHOA-THÙY CHI – nguồn: nhandan.vn)
1. Ngày 30/4/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW là một yêu cầu khách quan nhằm tạo ra một bước đột phá trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Nghị quyết này được xem là một trong "Bộ tứ trụ cột" để hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Nghị quyết số 66-NQ/TW xác định rõ mục tiêu: “Năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những "điểm nghẽn" do quy định pháp luật. Năm 2027, hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp luật bảo đảm cơ sở pháp lý đồng bộ cho hoạt động của bộ máy nhà nước theo mô hình chính quyền 3 cấp. Năm 2028, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, góp phần đưa môi trường đầu tư của Việt Nam nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN”. Đến năm 2024, Việt Nam sẽ là quốc gia có: “hệ thống pháp luật chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế tiên tiến và phù hợp với thực tiễn đất nước, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội; quản trị quốc gia hiện đại với bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển”.
Đây là một trong "Bộ tứ trụ cột" (Nghị quyết số 57 về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Nghị quyết số 59 về hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 68 về phát triển kinh tế tư nhân; và Nghị quyết số 66 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật mang tính đột phá, là đòi hỏi khách quan của tiến trình đổi mới, nhằm tạo đột phá nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của đất nước.
2. Nghị quyết số 66-NQ/TW đã nêu đầy đủ và rõ ràng bảy nhiệm vụ, giải pháp cũng như phần việc, trách nhiệm cụ thể để cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương thống nhất quan điểm, nội dung và cách thức thực hiện, hướng đến đột phá về thể chế, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết số 66-NQ/TW được xem là một bước chuyển mới quan trọng, có tác động trực tiếp đến hoạt động của Quốc hội và đời sống chính trị, pháp lý của đất nước. Về nội hàm, Nghị quyết 66-NQ/TW nói chung và định hướng, chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư về công tác này ra đời là đúng đắn, kịp thời, là kim chỉ nam và là văn kiện quan trọng của Đảng trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Theo đó, hiệu quả, chất lượng của công tác thể chế phải được nâng lên một tầm cao mới, mở ra không gian, nguồn lực, lợi thế cho đất nước phát triển vượt bậc. Đồng thời, nghị quyết cũng nhấn mạnh sự đột phá thể chế phải song hành với cuộc cách mạng khoa học công nghệ và chuyển đổi số quốc gia. Trong bài viết vào ngày 4/5/2025 liên quan đến "Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình", Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Thể chế, pháp luật có chất lượng, phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn và nguyện vọng của nhân dân là yếu tố hàng đầu quyết định thành công của mỗi quốc gia. Do đó, để đất nước vươn mình phát triển mạnh mẽ, chúng ta dứt khoát nói "không" với bất cứ hạn chế, bất cập nào trong thể chế, pháp luật; không thỏa hiệp với bất kỳ yếu kém nào trong thiết kế chính sách, soạn thảo pháp luật, hay tổ chức thực thi”.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình, trực tiếp và toàn diện của Đảng, đất nước ta, dân tộc đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tích lũy đủ thế và lực cho sự phát triển bứt phá, sẵn sàng tâm thế bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là: “Kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng thành công nước Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới, cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu”. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng. Từ đây, mọi người dân Việt Nam, trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết nhất trí, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.
3. Nghị quyết 66-NQ/TW của Bộ Chính trị không chỉ là kim chỉ nam hành động mà còn là lời hiệu triệu mạnh mẽ, thúc đẩy cả bộ máy từ Trung ương đến địa phương nói chung, phải hành động khẩn trương, trách nhiệm hơn bao giờ hết, nhằm hiện thực hóa khát vọng vươn mình của dân tộc, vì mục tiêu xây dựng một hệ thống pháp luật Việt Nam dân chủ, công bằng, đồng bộ, công khai, minh bạch, khả thi trong kỷ nguyên mới. Có thể khái quát quan điểm chỉ đạo liên quan đến Nghị quyết 66-NQ/TW là: Nhấn mạnh vai trò lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng đối với công tác lập pháp và thi hành pháp luật; xác định đây là "đột phá của đột phá" trong việc hoàn thiện thể chế; nhấn mạnh việc xây dựng pháp luật phải bám sát thực tiễn và xác định rõ đầu tư cho pháp luật là đầu tư cho phát triển; tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật. Để đưa Nghị quyết 66-NQ/TW vào cuộc sống; đồng thời thể hiện sự thống nhất trong Đảng, Chính phủ và Quốc hội trong triển khai nghị quyết này, các cơ chế thiết yếu cơ bản cần quan tâm sẽ là:
Thứ nhất, chuyển đổi tư duy: Từ "Quản lý" sang "Kiến tạo phát triển"
Chúng tôi cho rằng, đây là một trong những cơ chế nền tảng và cốt lõi nhất. Nghị quyết 66-NQ/TW xác định việc xây dựng và thi hành pháp luật là "đột phá của đột phá". Tuy nhiên, mục tiêu này chỉ có thể đạt được nếu chúng ta chuyển đổi triết lý lập pháp từ việc đặt ra các rào cản hành chính để "quản lý" sang xây dựng các công cụ pháp lý để "phục vụ," "hỗ trợ," và "khơi thông" nguồn lực. Việc phá vỡ "điểm nghẽn" sẽ là tư duy giúp chúng ta chủ động nhận diện và giải quyết các vấn đề đã tồn tại, ví dụ như tháo gỡ các dự án đất đai tồn đọng tại TP. Hồ Chí Minh trong bao nhiêu năm nay! Ngoài ra, việc thiết lập tính đồng bộ và minh bạch sẽ làm cho hệ thống pháp luật được đồng bộ, dựa trên dữ liệu khách quan. Ví dụ, việc áp dụng bảng giá đất thống nhất và điều chỉnh theo dữ liệu thị trường sẽ giúp giá trị đất phản ánh đúng thực tế, tạo ra môi trường đầu tư minh bạch hơn, nhất là đối với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Minh chứng thực tiễn là tại cấp trung ương: Sau khi Nghị quyết 66-NQ/TW được ban hành, Chính phủ đã có những động thái phê bình các địa phương chậm trễ ban hành văn bản hướng dẫn Luật Đất đai, cho thấy sự quyết liệt trong việc thúc đẩy hoàn thiện thể chế ở cấp cơ sở. Tại địa phương, Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh đã ban hành kế hoạch hành động cụ thể để triển khai Nghị quyết, thể hiện sự chủ động của chính quyền địa phương trong việc cụ thể hóa tinh thần chỉ đạo từ trung ương vào thực tiễn quản lý đô thị. Theo Kế hoạch, UBND TP.HCM đặt mục tiêu đến năm 2027 hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển của thành phố trong kỷ nguyên mới. Đồng thời, các cơ quan chức năng sẽ tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Đến năm 2030, TP HCM phấn đấu xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi; bảo đảm cơ chế tổ chức thi hành nghiêm minh, thông suốt, tháo gỡ vướng mắc phát sinh từ thực tiễn, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội.

Phiên họp thứ nhất Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật sáng 5/6/2025
Thứ hai, cơ chế chỉ đạo trung ương chuyên biệt
Việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về xây dựng và thi hành pháp luật, với sự tham gia của các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ, bảo đảm tính liên thông, khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán trách nhiệm. Cơ chế này tạo sức mạnh phối hợp tập trung và xuyên suốt. Trước đây, công tác xây dựng và thi hành pháp luật thường bị phân tán giữa nhiều cơ quan khác nhau của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, dẫn đến tình trạng thiếu đồng bộ, mâu thuẫn và chồng chéo. Ban Chỉ đạo Trung ương, với sự tham gia của các cơ quan đầu não, đóng vai trò là "một trung tâm quyền lực duy nhất" về thể chế. Cơ chế này đảm bảo mọi quyết sách về pháp luật đều được thống nhất từ cấp cao nhất, khắc phục được sự phân tán trách nhiệm, tạo ra sức mạnh phối hợp tập trung và xuyên suốt. Điều này trực tiếp giải quyết vấn đề của các quy định pháp luật mâu thuẫn, không rõ ràng được Bộ Tư pháp chỉ ra. Thay vì chỉ ban hành luật để quản lý và kiểm soát, Ban Chỉ đạo tập trung vào việc tạo ra các cơ chế pháp lý để "phục vụ", "hỗ trợ" và "khơi thông" nguồn lực. Điều này thể hiện qua việc Ban Chỉ đạo đã chỉ đạo rà soát, tháo gỡ các "điểm nghẽn" từ các quy định pháp luật , nhằm đưa Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững trong tương lai. Ngoài ra, cơ chế này còn bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Ban Chỉ đạo giúp kết nối các quan điểm, chủ trương của Đảng với việc xây dựng và thực thi chính sách của Nhà nước. Sự tham gia của các cơ quan lập pháp (Quốc hội) và hành pháp (Chính phủ) trong Ban Chỉ đạo bảo đảm tính liên thông, giúp các dự thảo luật không chỉ hợp lý về mặt lý luận mà còn khả thi trong thực tiễn.
Thứ ba, cơ chế tài chính, nguồn lực kết hợp với ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số
Muốn đổi mới pháp luật phải có đầu tư tương xứng, có thể thí điểm Quỹ hỗ trợ xây dựng chính sách – pháp luật, giúp bảo đảm chi phí nghiên cứu, nhuận bút, thẩm định, phản biện và ứng dụng công nghệ số. Việc đổi mới tư duy lập pháp, tăng cường đào tạo luật gia, chuyên gia chính sách, bảo đảm đội ngũ làm luật có bản lĩnh, trình độ và tầm nhìn chiến lược cũng là vấn đề cần được quan tâm đúng mức. Nhận thức được: “Việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo là vai trò, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn xã hội, là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị mà ngành giáo dục giữ vai trò chủ đạo”
Thực tế, Nghị quyết 66-NQ/TW đã xác định rõ “Đầu tư cho công tác xây dựng chính sách, pháp luật là đầu tư cho phát triển”. Đây không chỉ là một quan điểm mà phải được cụ thể hóa bằng một cơ chế tài chính linh hoạt và hiệu quả. Việc phân bổ ngân sách cần chuyển từ chi phí hành chính đơn thuần sang đầu tư cho nghiên cứu, đánh giá tác động và thực thi pháp luật. Điều này bao gồm việc cấp kinh phí cho các dự án nghiên cứu liên ngành, thuê chuyên gia độc lập, và xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ. Cơ chế tài chính và nguồn lực chỉ phát huy tối đa hiệu quả khi được kết hợp với công nghệ. Công nghệ không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn nâng cao tính minh bạch, chính xác và hiệu quả của toàn bộ quá trình. Quá trình triển khai thực hiện cần xây dựng một nền tảng dữ liệu số hóa toàn diện về văn bản quy phạm pháp luật, hồ sơ dự án luật và các báo cáo đánh giá tác động. Nền tảng này cho phép các bên liên quan dễ dàng tra cứu, theo dõi và đóng góp ý kiến, rút ngắn thời gian xây dựng chính sách, đồng thời tăng cường sự tham gia của người dân và doanh nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ để thiết lập các chỉ số đánh giá hiệu quả (KPIs) cho việc thi hành pháp luật. Ví dụ, sử dụng dữ liệu lớn (big data) để phân tích tác động của một chính sách mới đối với môi trường đầu tư, từ đó đưa ra các điều chỉnh kịp thời. Thực tế, có sự kết hợp giữa uyển chuyển cơ chế tài chính đầu tư và ứng dụng công nghệ sẽ tạo ra một cú hích mạnh mẽ, chuyển hoá tinh thần của Nghị quyết 66-NQ/TW thành hành động cụ thể, mở đường cho một giai đoạn phát triển mới dựa trên nền tảng thể chế pháp luật chất lượng cao.

Ảnh minh hoạ
Thứ tư, cơ chế đánh giá tác động chính sách thường xuyên (RIA – Regulatory Impact Assessment)
Bối cảnh đương đại hiện nay, đây cũng là một trong những cơ chế thiết yếu để chuyển hóa tinh thần của Nghị quyết 66-NQ/TW thành hành động hiệu quả. Cơ chế này đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo tính khách quan và hiệu quả của hệ thống pháp luật. Cơ chế RIA là một công cụ khoa học giúp phân tích một cách toàn diện các tác động kinh tế, xã hội, và môi trường của một dự thảo chính sách hoặc văn bản pháp luật trước khi ban hành. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất ở Việt Nam là việc đánh giá này thường chỉ mang tính hình thức, không được thực hiện một cách đầy đủ và bắt buộc. Việc thể chế hóa cơ chế RIA một cách mạnh mẽ sẽ mang lại những lợi ích cốt lõi sau: Nâng cao chất lượng lập pháp: RIA giúp các nhà làm luật có cái nhìn đa chiều về tác động của chính sách. Thay vì chỉ dựa trên cảm tính hoặc kinh nghiệm, họ có thể sử dụng dữ liệu và phân tích để đưa ra những quyết định sáng suốt hơn. Cơ chế này cũng giúp giảm thiểu những hệ lụy không mong muốn sau khi chính sách được ban hành. Tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình: Việc bắt buộc công khai kết quả đánh giá tác động sẽ tạo ra một kênh giám sát hiệu quả từ phía người dân và doanh nghiệp. Điều này không chỉ tăng cường sự tin tưởng của xã hội vào hệ thống pháp luật mà còn tạo áp lực để các cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm hơn về các quyết định của mình. Đó là một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN.
Thúc đẩy "Pháp luật kiến tạo phát triển": Với tinh thần của Nghị quyết 66-NQ/TW, cơ chế RIA sẽ giúp xác định những quy định nào đang gây cản trở sự phát triển, từ đó đề xuất các giải pháp tháo gỡ kịp thời. Điều này đặc biệt quan trọng trong việc hoàn thiện các quy định về đầu tư, kinh doanh để cải thiện môi trường đầu tư, như mục tiêu Nghị quyết đã đặt ra là đưa môi trường đầu tư của Việt Nam vào nhóm dẫn đầu ASEAN.
Ngoài ra, xét ở khía cạnh vai trò trong việc giải quyết thách thức hiện nay, chính thực tiễn tại Việt Nam cho thấy, nhiều văn bản pháp luật hiện hành vẫn còn những bất cập. Việc thiếu một cơ chế đánh giá tác động định kỳ và bắt buộc là một trong những nguyên nhân chính. Hệ quả là nhiều quy định đã không còn phù hợp với thực tiễn, gây gánh nặng chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp và kìm hãm sự đổi mới sáng tạo. Vì vậy, việc thể chế hóa và thực thi nghiêm túc cơ chế RIA là một bước đi chiến lược, là một cơ chế thiết yếu để biến tinh thần của Nghị quyết 66-NQ/TW thành hành động hiệu quả, giúp hệ thống pháp luật Việt Nam trở nên năng động và hiện đại hơn trong xu thế tiến vào kỷ nguyên mới.
4. Trong bối cảnh đất nước bước vào một kỷ nguyên phát triển mới, Nghị quyết 66-NQ/TW được xem là kim chỉ nam chiến lược và là một lời hiệu triệu hành động mạnh mẽ. Nghị quyết không chỉ định hướng công tác xây dựng và thi hành pháp luật mà còn là một đột phá then chốt để giải phóng các nguồn lực phát triển, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho việc cải cách thể chế, thúc đẩy kinh tế tư nhân, và ứng dụng khoa học công nghệ, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng. Để chuyển hóa tinh thần Nghị quyết thành động lực thực tiễn, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của toàn bộ hệ thống chính trị và sự tham gia tích cực từ xã hội. Yếu tố cốt lõi là sự quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước. Các cơ quan từ trung ương đến địa phương cần coi Nghị quyết 66-NQ/TW là nhiệm vụ trọng tâm, là cơ sở để rà soát, sửa đổi và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp. Đồng thời, cần kiên quyết tinh gọn bộ máy và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật. Các cơ quan và địa phương cần vận hành các cơ chế thiết yếu một cách đồng bộ và liên thông, tránh tình trạng rời rạc, chồng chéo. Cần thiết lập các mạng lưới liên ngành, nơi các cơ quan hành chính, tổ chức xã hội và doanh nghiệp cùng phối hợp chặt chẽ. Người dân và cộng đồng doanh nghiệp không chỉ là đối tượng thụ hưởng mà còn là chủ thể giám sát và phản biện quan trọng. Sự tham gia của họ vào quá trình xây dựng, triển khai và đánh giá chính sách sẽ đảm bảo các văn bản pháp luật được ban hành gắn kết chặt chẽ với thực tiễn, giải quyết các vướng mắc từ cơ sở. Việc tổ chức thực hiện một cách quyết liệt, đồng bộ các giải pháp trên là yếu tố quyết định để chuyển hóa tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW thành động lực đột phá. Đây là bước chuẩn bị quan trọng để đất nước bước vào một kỷ nguyên mới, khởi đầu từ Đại hội XIV của Đảng (dự kiến diễn ra vào tháng 1 năm 2026)./.
---------------------------
Tài liệu tham khảo
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. (2025, 30 tháng 4). Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Hà Nội. Truy xuất từ https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-66-NQ-TW-2025-doi-moi-cong-tac-xay-dung-phap-luat-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-dat-nuoc-655134.aspx
2. aBộ Tư pháp. (2025, 6 tháng 8). Đột phá thể chế từ Nghị quyết 66-NQ/TW: Kỳ vọng mới của cộng đồng doanh nghiệp. Bản tin Bộ Tư pháp. Truy xuất từ https://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2713
3. Hằng, T. (2025). Đặt nền móng cho đột phá thể chế, đưa Nghị quyết 66-NQ/TW vào cuộc sống. Truy xuất từ https://nhandan.vn/dat-nen-mong-cho-dot-pha-the-che-dua-nghi-quyet-66-nqtw-vao-cuoc-song-post878592.html
4. Minh Nghĩa (2025), TP HCM triển khai Nghị quyết 66-NQ/TW: Đột phá đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, truy xuất từ: https://thanhtra.com.vn/ky-nguyen-moi-cua-dan-toc-6E454529F/tp-hcm-trien-khai-nghi-quyet-66-nqtw-dot-pha-doi-moi-cong-tac-xay-dung-va-thi-hanh-phap-luat-aed27e20a.html
5. Tổng thuật. (n.d.). Tọa đàm "Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc – Cơ hội và thách thức". Truy xuất từ https://baochinhphu.vn/cap-nhat-toa-dam-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-co-hoi-va-thach-thuc-102241227090334296.htm
6. Ước, T. M. (2019). Quán triệt Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở trường Đại học Ngân hàng TP.HCM. Trong Tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam cho các thập niên đầu của thế kỷ XXI (tr. 210–219). Nhà Xuất bản Thông tin và truyền thông.
7. Ước, T. M. (2023). Phát huy tính năng động, sáng tạo và chú trọng và nguyên tắc phát triển nguồn nhân lực: động lực cần thiết để vùng Đông Nam Bộ phát triển trong giai đoạn hiện nay. Trong Kỷ yếu HTKH “Các tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ với việc triển khai Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (tr. 415–436). Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Bình Phước.
8. Uoc, T. M. (2023). Digital Transfer Work At University In Vietnam (Case At Banking University Of Ho Chi Minh City): Issues Need To Concern. Rivista Italiana di Filosofia Analitica Junior, 14(2), 333–339. Truy xuất từ https://rifanalitica.it/index.php/journal/article/view/236