Có 5 nội dung lớn được VCCI gửi Bộ Tài chính góp ý Dự thảo Luật Thuế Giá trị gia tăng (sửa đổi) (Ảnh minh hoạ)
1. Thuế giá trị gia tăng đối với dịch vụ xuất khẩu
Điều 9.1 của Dự thảo sửa đổi theo hướng sẽ đánh thuế đối với hầu hết dịch vụ xuất khẩu, mà không cho phép hưởng thuế suất 0% như trước đây. Các lĩnh vực dịch vụ xuất khẩu vẫn được hưởng thuế suất 0% chỉ còn vận tải quốc tế, cho thuê phương tiện vận tải ngoài lãnh thổ Việt Nam và một số dịch vụ liên quan. Các lĩnh vực dịch vụ khác sẽ phải chịu thuế suất tương ứng (về cơ bản là mức 10%). Lý do của sửa đổi này là do thời gian qua, cơ quan thuế gặp khó khăn trong việc phân biệt doanh thu nào đến từ dịch vụ được xuất khẩu, doanh thu nào đến từ dịch vụ được tiêu dùng trong nước.
Việc phải chịu thuế suất 10% khi xuất khẩu sẽ khiến các nhà cung cấp dịch vụ cho nước ngoài của Việt Nam gặp khó khăn khi cạnh tranh với đối thủ đến từ quốc gia khác. Theo tìm hiểu sơ bộ của VCCI, các quốc gia khác đều áp thuế suất 0% cho dịch vụ xuất khẩu và cho phép doanh nghiệp được hoàn thuế đầu vào (qua tìm hiểu sơ bộ, VCCI chưa tìm thấy trường hợp nào đánh thuế đối với dịch vụ xuất khẩu).
Xu hướng tăng trưởng thương mại dịch vụ quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới trong gần hai thập kỷ qua và nhiều khả năng sẽ tiếp tục trong thời gian tới, cùng với sự phát triển của internet và các phương thức làm việc từ xa. Theo cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, xuất khẩu dịch vụ toàn cầu đã tăng từ mức hơn 400 tỷ đô la trong những năm đầu của thập kỷ 80 lên hơn 7.210 tỷ đô la năm 2022. Đặc biệt, từ năm 2003 đến nay, tốc độ tăng trưởng trung bình của dịch vụ xuất khẩu toàn cầu đạt trên 6,5%. Trong các loại hình dịch vụ xuất khẩu, dịch vụ vận tải quốc tế (được hưởng thuế suất 0% tại Dự thảo) chiếm tỷ trọng lớn, nhưng tỷ trọng này ngày càng giảm, từ mức 30% năm 1982 xuống 17% năm 2020 (trước Covid), và được thay thế bằng các dịch vụ viễn thông và công nghệ thông tin (ICT). Tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ ICT toàn cầu trung bình 12,3% từ năm 2004 đến nay với tốc độ ngày càng nhanh kể từ Covid.
Doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ như game, các dịch vụ công nghệ... sẽ gặp khó vì dự kiến bị đánh thuế 10% thay vì 0% như hiện nay (nguồn ảnh theo tuoitre.vn)
Hiện nay, xuất khẩu dịch vụ là lĩnh vực đang có tiềm năng phát triển rất lớn. Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam năm 2023 đạt khoảng 20 tỷ đô la, tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 11% mỗi năm, cao hơn so với tăng trưởng GDP. Việt Nam đang nhập siêu dịch vụ ở mức hơn 10 tỷ đô la mỗi năm. Để cung cấp dịch vụ xuất khẩu, các doanh nghiệp thường không yêu cầu vốn đầu tư quá lớn như công nghiệp chế biến chế tạo, phù hợp với một nền kinh tế thiếu vốn như Việt Nam. Thêm vào đó, xuất khẩu dịch vụ trên môi trường internet hiện nay giúp quảng bá hình ảnh đất nước và làm gia tăng sức mạnh mềm của quốc gia.
Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế định hướng xuất khẩu. Từ đổi mới đến nay, xuất khẩu hàng hoá luôn là động lực tăng trưởng quan trọng của đất nước, với tốc độ tăng trung bình gần 15% mỗi năm. Kết quả này có được không thể không kể đến vai trò của chính sách thuế GTGT đối với hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% và doanh nghiệp được hoàn thuế đầu vào. Mặc dù trong quá trình áp dụng, vẫn có tình trạng một số doanh nghiệp gian lận để trục lợi hoàn thuế, nhưng điều đó không thể phủ nhận ích lợi to lớn của chính sách thuế xuất khẩu hàng hoá 0%. Ngành thuế giai đoạn đầu cũng gặp nhiều khó khăn trong việc chống gian lận hoàn thuế, nhưng qua nhiều năm thực hiện, với nhiều nỗ lực thì tình trạng này đã được hạn chế rất nhiều.
Đối với xuất khẩu dịch vụ, Luật Thuế GTGT hiện hành cho phép hưởng thuế suất 0%. Nhưng trên thực tế phản ánh của nhiều doanh nghiệp, họ vẫn thường bị áp mức thuế 10% do cán bộ thuế không phân biệt được đâu là dịch vụ tiêu dùng trong nước, đâu là dịch vụ xuất khẩu. Cũng xuất phát từ lý do khó khăn trong thực thi này, Dự thảo này đã đề xuất không cho phép dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% nữa, mà thay vào đó là áp thuế 10%.
Tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia khác trong việc thực hiện chính sách thuế GTGT dịch vụ xuất khẩu 0%, VCCI nhận thấy các nước thường áp dụng nguyên tắc doanh nghiệp tự khai, tự chịu trách nhiệm, cơ quan thuế thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm. Để bảo đảm kê khai thuế chính xác, các quốc gia cũng yêu cầu doanh nghiệp phải hạch toán riêng doanh thu từ người dùng trong nước và nước ngoài, sử dụng nhiều biện pháp kiểm tra như dữ liệu từ các nền tảng trung gian (Google, Apple…), IP của người dùng, và dữ liệu thanh toán ngân hàng. Các thông tin này được thu thập, phân loại và quản lý theo rủi ro.
Nhiều doanh nghiệp phản ánh, thời gian qua, để bảo đảm hạch toán riêng giữa doanh thu từ người dùng trong nước và người dùng nước ngoài, doanh nghiệp đã buộc phải tách sản phẩm thành hai phiên bản để cung cấp cho hai thị trường khác nhau. Tuy nhiên, giải pháp này phát sinh nhiều vấn đề và làm tăng chi phí vận hành, cung cấp sản phẩm của doanh nghiệp.
Hiện nay, tình trạng các doanh nghiệp công nghệ thông tin của Việt Nam ra nước ngoài mở doanh nghiệp diễn ra ngày càng phổ biến. Ngoài việc có được ưu thế về huy động vốn từ nhà đầu tư, môi trường kinh doanh thuận lợi, thì vấn đề thuế cũng là một trong những nguyên nhân của tình trạng này. Nếu mở doanh nghiệp tại Việt Nam cung cấp cho người dùng nước ngoài, sản phẩm sẽ phải chịu hai lần thuế GTGT cho hai quốc gia. Nhưng nếu mở doanh nghiệp tại nước ngoài để cung cấp cho người dùng tại Việt Nam thì chỉ phải chịu một lần thuế GTGT tại Việt Nam.
Với tất cả các lý do trên, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo vẫn duy trì quy định dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% và giao cho Bộ Tài chính hướng dẫn phương pháp phân loại dịch vụ xuất khẩu và dịch vụ tiêu dùng trong nước.
2. Nghiên cứu cơ chế cho phép hạch toán tập trung đối với các doanh nghiệp trong cùng một tập đoàn kinh tế
Một số doanh nghiệp phản ánh tình trạng bất bình đẳng về thuế GTGT khi tổ chức sản xuất kinh doanh theo mô hình tập đoàn kinh tế. Ví dụ, một doanh nghiệp trong ngành sữa phản ánh như sau:
Đầu vào của họ gồm nhiều loại hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế 10%. Sản phẩm trung gian là sữa tươi thuộc diện không chịu thuế. Đầu ra cuối cùng là các sản phẩm đã qua chế biến, chịu thuế suất 10%. Nếu một doanh nghiệp thực hiện cả hai công đoạn, nuôi bò và chế biến sữa thì sẽ được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Tuy nhiên, khi chuyển sang hình thức tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp này tách thành một công ty chuyên sản xuất sữa tươi nguyên liệu và một công ty chuyên chế biến sữa. Lúc này, công ty thứ nhất không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào vì sản phẩm đầu ra thuộc diện không chịu thuế. Công ty thứ hai có đầu vào là sữa tươi nên không được khấu trừ khi nộp thuế đầu ra. Hệ quả là, khi chuyển sang mô hình tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp phải nộp thuế nhiều hơn.
Một số doanh nghiệp phản ánh đến VCCI tình trạng bất bình đẳng về thuế giá trị gia tăng khi tổ chức sản xuất kinh doanh theo mô hình tập đoàn kinh tế (Ảnh minh họa)
Vấn đề này không chỉ xuất hiện ở ngành sữa mà là vấn đề của nhiều ngành khác mà có sản phẩm trung gian thuộc diện không chịu thuế. Trong những trường hợp như vậy, do không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào nên các doanh nghiệp sẽ giảm động lực tổ chức theo mô hình tập đoàn kinh tế. Trong khi đó, Nghị quyết số 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nêu rõ quan điểm khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân. Mô hình tổ chức kinh doanh theo tập đoàn kinh tế (công ty mẹ – con), thay vì một công ty cùng lúc thực hiện nhiều công đoạn sản xuất, giúp giảm rủi ro và tăng tính linh hoạt, phù hợp hơn khi doanh nghiệp phát triển quy mô sản xuất kinh doanh lớn.
Để giải quyết vấn đề này, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu cơ chế cho phép các doanh nghiệp được tổ chức theo mô hình tập đoàn kinh tế được phép hạch toán tập trung cả tập đoàn, thay vì hạch toán riêng từng công ty con như hiện nay. Một cơ chế như vậy sẽ giúp các doanh nghiệp không phải nộp nhiều thuế hơn khi chuyển sang mô hình tập đoàn kinh tế.
3. Ngưỡng doanh thu không chịu thuế
Điều 5.25 của Dự thảo đã nâng ngưỡng doanh thu không chịu thuế của hộ gia đình, cá nhân kinh doanh từ 100 triệu đồng/năm lên 150 triệu đồng/năm. Quy định này sẽ giúp nhiều cá nhân, hộ gia đình kinh doanh nhỏ lẻ không phải thực hiện việc kê khai và nộp thuế. Tuy nhiên, theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp thì ngưỡng doanh thu chịu thuế 150 triệu đồng/năm vẫn tương đối thấp.
So sánh giữa cá nhân kinh doanh và cá nhân làm công ăn lương sẽ thấy sự bất hợp lý. Hiện nay, cá nhân làm công ăn lương có mức giảm trừ gia cảnh đối với trường hợp không có người phụ thuộc là 132 triệu đồng/năm, nếu có một người phụ thuộc là 184,8 triệu đồng/năm, và nếu có hai người phụ thuộc là 237,6 triệu đồng/năm. Với giả định trung bình mỗi người lao động có một người phụ thuộc thì ngưỡng thu nhập chịu thuế đối với người làm công ăn lương hiện cao hơn ngưỡng doanh thu chịu thuế giá trị gia tăng của cá nhân kinh doanh. Đó là chưa kể, để có thể có doanh thu, cá nhân kinh doanh sẽ phải mất các chi phí đầu vào trong khi thu nhập cá nhân thì không có các chi phí này.
Các lĩnh vực khác nhau có kết cấu chi phí và mức thuế suất khác nhau, dù có thể cùng một mức doanh thu. Ví dụ, với lĩnh vực thương mại hàng hoá (như cửa hàng bán lẻ, tạp hoá) có chi phí đầu vào chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu, phần thu nhập mà cá nhân kinh doanh được hưởng không lớn và số thuế thu được chỉ từ 1,5 triệu đồng mỗi năm. Với lĩnh vực cung cấp dịch vụ, chi phí đầu vào không đáng kể, phần giá trị gia tăng làm ra lớn hơn và số thuế phải nộp cao hơn, thấp nhất 7,5 triệu đồng/năm.
Với các lý do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc sửa đổi quy định về ngưỡng doanh thu chịu thuế của của hộ, cá nhân kinh doanh như sau:
- Cân nhắc nâng mức doanh thu chịu thuế lên khoảng 180 đến 200 triệu đồng mỗi năm.
- Cân nhắc phân loại theo ngành nghề tương tự như tại Điều 12.2.b của Dự thảo về phương pháp tính thuế trực tiếp, ví dụ ngành phân phối, cung cấp hàng hoá có ngưỡng cao hơn ngành dịch vụ, xây dựng…
4. Hàng hoá dịch vụ biếu tặng cho với mục đích từ thiện
Hiện nay, hàng hoá, dịch vụ thuộc diện biếu tặng cho trong nước vì mục đích từ thiện vẫn thuộc diện chịu thuế với giá tính thuế được xác định bằng với giá của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh hoạt động này. Dự thảo mới chỉ coi hàng hoá nhập khẩu ủng hộ, tài trợ cho phòng chống thiên tai, thảm hoạ dịch bệnh, chiến tranh được xếp vào diện không chịu thuế. Nói cách khác, hàng hoá cho biếu tặng với mục đích từ thiện nhập khẩu thì không phải chịu thuế GTGT, còn hàng hoá dịch vụ cho biếu tặng trong nước vì mục đích từ thiện vẫn phải chịu thuế.
Quan điểm, chủ trương chung của Đảng và Nhà nước là khuyến khích doanh nghiệp, doanh nhân thực hiện trách nhiệm xã hội. Nghị quyết 41 năm 2023 của Ban Chấp hành Trung ương có nội dung “khuyến khích doanh nhân, doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội, tham gia tích cực các hoạt động giúp đỡ cho người có hoàn cảnh khó khăn, địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo”. Pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp hiện cũng đã coi chi phí ủng hộ địa phương đoàn thể, tổ chức xã hội, chi từ thiện… là chi phí được trừ.
Trong trường hợp doanh nghiệp cho biếu tặng hàng hoá, dịch vụ vì mục đích từ thiện, doanh nghiệp không phát sinh doanh thu. Nếu phải nộp thuế giá trị gia tăng cho lượng hàng hoá, dịch vụ này, doanh nghiệp sẽ phải sử dụng tiền từ nguồn thu khác. Trong trường hợp thiên tai địch hoạ khẩn cấp, như dịch bệnh Covid vừa qua, không ít doanh nghiệp đã dừng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường để chuyển sang cung cấp hàng hoá, dịch vụ phục vụ chống dịch và tặng luôn cho Nhà nước. Nếu khi đó vẫn yêu cầu doanh nghiệp phải nộp thuế thì sẽ rất bất hợp lý.
Với những lý do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc bổ sung Điều 7.1.c theo hướng hàng hoá dịch vụ dùng để tặng cho biếu với mục đích từ thiện thì giá tính thuế được xác định bằng không.
5. Thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp chế xuất khi bán hàng vào nội địa
Một số doanh nghiệp chế xuất hiện phản ánh tình trạng họ đang phải nộp thuế giá trị gia tăng hai lần cho cùng một lượng hàng hoá bán vào nội địa. Theo đó, khi doanh nghiệp trong khu chế xuất bán hàng hoá vào nội địa sẽ phải mở tờ khai nhập khẩu và (doanh nghiệp đó hoặc người nhập khẩu) phải nộp thuế GTGT một lần cho lượng hàng hoá này. Cơ quan thuế sau đó vẫn yêu cầu doanh nghiệp kê khai và nộp thuế GTGT cho lượng hàng hoá này.
Về vấn đề này, đề nghị cơ quan soạn thảo quy định rõ theo hướng doanh nghiệp chế xuất khi bán hàng hoá vào nội địa sẽ phải nộp thuế GTGT khi làm thủ tục hải quan mà không phải nộp thuế GTGT cho hàng hoá đó theo kỳ tính thuế nữa.