
Luật Quy hoạch 2025 sửa đổi hàng loạt nội dung trọng yếu với nhiều điểm mới
7. Dự thảo Luật Quy hoạch sửa đổi 2025: Hoàn thiện khung thể chế, giải phóng điểm nghẽn và kiến tạo không gian phát triển
Luật Quy hoạch năm 2017 đã thiết lập nền tảng pháp lý thống nhất cho hoạt động quy hoạch quốc gia. Tuy nhiên, sau gần 7 năm thực tiễn triển khai, nhiều hạn chế bộc lộ rõ ràng, tạo ra điểm nghẽn lớn đối với phát triển kinh tế – xã hội. Thứ nhất, thiếu căn cứ pháp lý để xử lý mâu thuẫn giữa các loại quy hoạch. Thứ hai, nội dung quy hoạch quá chi tiết và trùng lặp, khiến quy hoạch vừa kém linh hoạt, vừa tạo xung đột khi triển khai dự án. Thứ ba, trình tự, thủ tục còn rườm rà, trong khi Luật lại thiếu quy định về lập đồng thời các quy hoạch và thứ tự phê duyệt, dẫn tới chậm tiến độ toàn hệ thống. Thứ tư, phân cấp phân quyền chưa phù hợp chủ trương mới của Đảng, đặc biệt trong bối cảnh yêu cầu tinh gọn bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính, chuyển đổi mô hình chính quyền đô thị…
Dự thảo Luật Quy hoạch (sửa đổi) 2025 do Bộ Tài chính soạn thảo gồm 06 Chương, 58 Điều và 01 Phụ lục, sửa đổi hàng loạt nội dung trọng yếu với nhiều điểm mới, được các đại biểu Quốc hội đánh giá là mang tính kiến tạo, nhằm “giải phóng điểm nghẽn”, “tăng hiệu lực điều hành” và “kiến tạo không gian phát triển dài hạn” . Dưới đây là các nội dung trọng tâm.
7.1. Hoàn thiện hệ thống quy hoạch, giảm 42% số lượng quy hoạch
Dự thảo đã hoàn chỉnh hệ thống quy hoạch theo 6 nhóm: Quy hoạch cấp quốc gia; (ii) Quy hoạch vùng; (iii) Quy hoạch tỉnh; (iv) Quy hoạch ngành; (v) Quy hoạch chi tiết ngành; (vi) Quy hoạch đô thị – nông thôn. Nhóm “quy hoạch chi tiết ngành” được bổ sung thay cho khái niệm cũ về quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành. Đặc biệt, số lượng quy hoạch đã giảm từ 78 xuống 45 (giảm 42%) theo nguyên tắc “một cơ quan làm nhiều việc; một việc chỉ giao một cơ quan chịu trách nhiệm chính”.
Thảo luận nội dung trên, nhiều ĐBQH đánh giá dự Luật khắc phục tình trạng chồng lấn, trùng lặp; giảm chi phí lập quy hoạch; tập trung nguồn lực vào các quy hoạch thật sự cần thiết; tạo sự minh bạch, đồng bộ trong quản lý phát triển. Tuy nhiên vẫn còn một số ý kiến băn khoăn như của Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm (Đoàn Đại biểu TP. Hà Nội) đề nghị phải làm rõ hơn quy định (tại khoản 9 Điều 3 Dự thảo về việc tiếp tục bổ sung) khái niệm “quy hoạch chi tiết ngành” để tránh chồng chéo, nhất là khi quy hoạch tỉnh được yêu cầu tuân thủ cả quy hoạch ngành lẫn chi tiết ngành.
7.2. Xử lý mâu thuẫn giữa các loại quy hoạch, tạo hành lang pháp lý thống nhất
Dự thảo bổ sung các nguyên tắc xử lý mâu thuẫn giữa quy hoạch do các cấp khác nhau phê duyệt; quy hoạch ngành với quy hoạch tỉnh, vùng; các quy hoạch cùng cấp. Theo đó, cơ chế xử lý mới cho phép: (i) Điều chỉnh quy hoạch theo trình tự rút gọn, khi mâu thuẫn có thể xác định rõ; (ii) Ưu tiên quy hoạch cấp cao hơn theo nguyên tắc hệ thống; (iii) Triển khai dự án nhanh hơn khi quy hoạch đã xác định được căn cứ áp dụng. Theo Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng, đây là mục tiêu trọng tâm nhằm xử lý “nút thắt lớn nhất” hiện nay – sự xung đột giữa các quy hoạch ngành và quy hoạch tỉnh, vốn làm đình trệ nhiều dự án đầu tư trong thời gian qua.
Đại biểu Khương Thị Mai đề nghị sửa khoản 2 Điều 15 để đúng với quan điểm phân cấp cho tỉnh.
7.3. Phân cấp, phân quyền mạnh mẽ trong lập và phê duyệt quy hoạch
Dự thảo xác lập mô hình phân cấp rõ ràng: (i) Chính phủ lập quy hoạch tổng thể quốc gia; (ii) Các bộ lập quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia và quy hoạch ngành; (iii) UBND cấp tỉnh lập quy hoạch tỉnh; (iv) Thủ tướng phê duyệt phần lớn quy hoạch quốc gia và vùng; (v) Bộ trưởng phê duyệt quy hoạch ngành; (vi) Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch tỉnh. Cách phân cấp này được đánh giá là phù hợp với yêu cầu thực tiễn, tăng tính chủ động địa phương, nhưng vẫn có cơ chế hậu kiểm chặt chẽ thông qua kiểm tra – giám sát – rà soát định kỳ quy hoạch.
7.4. Đơn giản hóa thủ tục lập quy hoạch, giảm 30% quy trình
Dự thảo thay đổi hàng loạt thủ tục: Bỏ bước “nhiệm vụ lập quy hoạch”, thay bằng “đề cương lập quy hoạch”; cho phép lập đồng thời các quy hoạch; xác lập rõ thứ tự phê duyệt, kể cả trường hợp đặc biệt; giảm bớt thủ tục trung gian trong thẩm định; cho phép điều chỉnh quy hoạch theo hai trình tự: thông thường và rút gọn. Nhiều ĐBQH đánh giá đây là bước tiến lớn làm tăng tính linh hoạt, rút ngắn thời gian lập – thẩm định – phê duyệt các loại quy hoạch vốn kéo dài nhiều năm. Đại biểu Nguyễn Trúc Sơn (Đoàn ĐBQH Vĩnh Long) đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu chuẩn hóa dữ liệu, nền tảng số để việc tinh giản thủ tục thực sự hiệu quả, tránh “tinh giản trên giấy tờ nhưng phức tạp trên thực tế”.

Các ĐBQH thảo luận tại tổ về dự thảo Luật Quy hoạch (sửa đổi) 2025
7.5. Làm rõ nguyên tắc đánh giá sự phù hợp của dự án với quy hoạch
Điều 48 Dự thảo quy định làm rõ nguyên tắc đánh giá sự phù hợp của dự án với quy hoạch. Đây là một trong những điểm nóng được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm vì có tác động trực tiếp đến thủ tục chấp thuận chủ trương và phê duyệt dự án. Theo đó, Dự thảo bổ sung các nguyên tắc: (i) Xác định loại quy hoạch làm căn cứ tại hai giai đoạn (thẩm định chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư); (ii) Phân biệt đánh giá theo quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị – nông thôn, quy hoạch chi tiết ngành; (iii) Xử lý trường hợp mâu thuẫn giữa các quy hoạch liên quan đến vị trí dự án; (iv) Quy định cách xác định tính chính xác của sơ đồ – bản đồ khi đánh giá.
Đại biểu Nguyễn Thị Mai Thoa (Hải Phòng) kiến nghị mở rộng trường hợp được phép quyết định đầu tư khác với quy hoạch, không chỉ đối với dự án công đặc biệt và khẩn cấp, mà cả dự án y tế và giáo dục do tính chất đặc thù và yêu cầu xã hội hóa hai lĩnh vực này.
7.6. Quy định mới về đánh giá và điều chỉnh quy hoạch
Điều 49 Dự thảo quy định định kỳ 5 năm đánh giá quy hoạch; đánh giá đột xuất trong trường hợp phát sinh nhu cầu điều chỉnh. Đại biểu Nguyễn Thị Sửu (Đoàn ĐBQH TP. Huế) đề xuất phải đánh giá lần đầu từ năm thứ hai, tránh chờ đến năm thứ năm mới rà soát; bổ sung tiêu chí định lượng (tỷ lệ hoàn thành, mức độ đạt chỉ tiêu, tỷ lệ sử dụng đất…); yêu cầu công bố kết quả rộng rãi cho cộng đồng dân cư, chứ không chỉ đăng trên hệ thống thông tin quốc gia.
Ngoài ra, nhiều ý kiến đề nghị bổ sung rõ hơn về điều chỉnh tổng thể và điều chỉnh cục bộ, thành phần Hội đồng thẩm định khi điều chỉnh, vai trò chuyên gia độc lập. Những góp ý này phản ánh yêu cầu kiểm soát chặt chẽ việc điều chỉnh quy hoạch, tránh lợi dụng điều chỉnh để phục vụ lợi ích nhóm.
7.7. Hoàn thiện cơ chế xây dựng – quản lý hệ thống dữ liệu quy hoạch
Các ĐBQH nhấn mạnh cần thống nhất bộ chuẩn không gian, chuẩn thuộc tính và chuẩn kết nối dữ liệu; bắt buộc chia sẻ dữ liệu qua API quốc gia, có trách nhiệm pháp lý nếu chậm cập nhật; xây dựng hệ thống thông tin – cơ sở dữ liệu quy hoạch đồng bộ trên phạm vi cả nước. Đại biểu Nguyễn Trúc Sơn cảnh báo rằng “khoảng trống pháp lý luôn là mảnh đất màu mỡ cho khiếu kiện đất đai”, do đó dữ liệu quy hoạch phải chuẩn hóa và minh bạch tuyệt đối.
Kết luận: Dự thảo Luật Quy hoạch (sửa đổi) 2025 đánh dấu bước hoàn thiện quan trọng của khung pháp luật về quy hoạch ở Việt Nam. Những nội dung sửa đổi lần này không chỉ mang tính kỹ thuật mà còn thể hiện tư duy phát triển mới: Lấy quy hoạch làm công cụ điều phối không gian phát triển, giải phóng nguồn lực và tạo nền tảng cho tăng trưởng dài hạn. Việc giảm mạnh số lượng quy hoạch, thống nhất hệ thống quy hoạch, bổ sung cơ chế xử lý mâu thuẫn, phân cấp triệt để, đơn giản hóa thủ tục, chuẩn hóa dữ liệu, minh bạch hóa đánh giá dự án…cho thấy mục tiêu rõ ràng của Nhà nước: đưa quy hoạch trở thành công cụ điều hành chiến lược, hiệu quả, khả thi và minh bạch.
Các ý kiến từ đại biểu Quốc hội cũng góp phần hoàn thiện dự thảo theo hướng thực tiễn, khả thi và phù hợp yêu cầu phát triển mới, đặc biệt trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, dữ liệu số và quản trị địa phương. Dự kiến sẽ được thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Luật Quy hoạch (sửa đổi) 2025 kỳ vọng sẽ trở thành Luật khung quan trọng, làm nền tảng cho các luật chuyên ngành, tạo ra hệ sinh thái pháp lý đồng bộ, mở đường cho một giai đoạn phát triển bền vững và hiệu quả hơn của nền kinh tế.
8. Dự thảo Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) 2025: Bổ sung cơ chế dự trữ chiến lược, đẩy mạnh phân cấp và xã hội hóa

Dự thảo Luật sửa đổi được xây dựng theo quy trình thủ tục rút gọn và đã thể hiện sự cải cách mạnh mẽ về số lượng điều khoản…
Việc sửa đổi Luật Dự trữ quốc gia được xác định là cần thiết và cấp bách nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết số 39 ngày 15/2/2019, Kết luận số 115 ngày 16/2/2025 của Bộ Chính trị và Kết luận của Tổng Bí thư Tô Lâm về dự trữ quốc gia. Mục tiêu chính là tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành Luật hiện hành, đồng thời đáp ứng yêu cầu mới về tăng cường phân quyền, phân cấp và chuyển đổi số trong lĩnh vực này.
Dự thảo Luật sửa đổi được xây dựng theo quy trình thủ tục rút gọn và đã thể hiện sự cải cách mạnh mẽ về số lượng điều khoản. So với Luật Dự trữ quốc gia năm 2012 (66 Điều), Dự thảo Luật (sửa đổi) đã cắt giảm đáng kể: Từ 66 Điều giảm xuống còn 36 Điều (theo Tờ trình của Bộ trưởng Bộ Tài chính ngày 17/11). Thủ tục hành chính: Cắt giảm tối đa các thủ tục hành chính không cần thiết, không rõ thẩm quyền, không quy định thêm thủ tục, và cắt giảm/đơn giản hóa 2/6 thủ tục hành chính. Sự cắt giảm này thể hiện tinh thần đổi mới trong xây dựng Luật, chỉ quy định những nội dung thuộc thẩm quyền của Quốc hội, tăng cường tính cô đọng và khả thi của văn bản. Dự thảo Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) 2025 tập trung vào việc tăng cường phân cấp, bổ sung cơ chế dự trữ chiến lược và thúc đẩy xã hội hóa hoạt động dự trữ.
8.1. Bổ sung quy định về Dự trữ chiến lược
Đây là điểm nhấn nổi bật và có tính đột phá của Dự thảo Luật, theo Bộ Tài chính nhằm thể chế hóa Kết luận 115 của Bộ Chính trị. Dự thảo kế thừa, sửa đổi và bổ sung mục tiêu dự trữ quốc gia, dự trữ chiến lược để bảo đảm tự chủ chiến lược quốc gia nhằm huy động, khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế. Đồng thời, là công cụ điều tiết thị trường để bảo đảm nền kinh tế vận hành ổn định, hiệu quả theo quy luật thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Dự thảo Luật mở rộng phạm vi điều chỉnh bao gồm cả tài nguyên, khoáng sản quan trọng và sản phẩm công nghệ cao; và giao Chính phủ quy định danh mục hàng dự trữ chiến lược, danh mục hàng dự trữ quốc gia, thay vì quy định chi tiết trong Luật, nhằm đảm bảo tính linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, nội dung trên của dự Luật đã nhận được nhiều ý kiến băn khoăn từ các ĐBQH. Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước Trần Minh Khương lo ngại nếu quá thiên về mục tiêu dự trữ để điều tiết thị trường, có thể bị biến thành cơ quan kinh doanh. Ông phân tích việc quy định dự trữ chiến lược để điều tiết thị trường bao gồm cả tài nguyên, khoáng sản và trang thiết bị phục vụ an ninh quốc phòng, trong khi các mặt hàng an ninh quốc phòng lại không được bán để điều tiết thị trường. Từ đó ông đề nghị mục tiêu nên tập trung vào dự trữ để chủ động ứng phó với thiên tai, dịch bệnh, phục vụ an ninh quốc phòng và an sinh xã hội là chính. Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi đề nghị cơ quan soạn thảo cần tập trung rà soát, làm rõ sự khác biệt giữa “dự trữ truyền thống” và “dự trữ chiến lược” trong giải thích từ ngữ, danh mục hàng hóa và cơ chế chính sách.
8.2. Tăng cường phân cấp, phân quyền mạnh mẽ

Dự Luật sửa đổi mở rộng phạm vi điều chỉnh bao gồm cả tài nguyên, khoáng sản quan trọng và sản phẩm công nghệ cao
Cùng với cắt giảm đơn giản hóa thủ tục và điều khoản thi hành, cắt giảm tối đa các thủ tục không cần thiết, không rõ thẩm quyền và không quy định thêm, dự thảo Luật đã phân cấp phân quyền mạnh mẽ triệt để về ban hành danh mục hàng dự trữ quốc gia, hàng dự trữ chiến lược, quyết định nhập xuất hàng dự trữ quốc gia, quy định về bảo quản định mức kinh tế kỹ thuật xuất nhập hàng dự trữ quốc gia. Cụ thể: (i) Danh mục hàng Dự trữ Quốc gia: phân cấp thẩm quyền ban hành từ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho Chính phủ.
Đồng thời, giao Chính phủ quy định danh mục và các Bộ, ngành quy định chi tiết các mặt hàng dự trữ để đảm bảo tính linh hoạt. (ii) Thẩm quyền nhập, xuất hàng: phân cấp thẩm quyền quyết định từ Chính phủ cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ quản lý hàng Dự trữ Quốc gia. (iii) Quản lý bảo quản: Chuyển nhiệm vụ quy định về bảo quản, định mức kinh tế - kỹ thuật, xuất hàng Dự trữ Quốc gia từ Bộ trưởng Bộ Tài chính sang các Bộ, ngành quản lý hàng dự trữ. Việc phân cấp này nhằm mục đích đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan quản lý chuyên ngành, giúp hoạt động dự trữ trở nên linh hoạt và kịp thời hơn.
8.3. Thúc đẩy xã hội hóa hoạt động dự trữ quốc gia
Dự thảo Luật có bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy xã hội hóa hoạt động dự trữ quốc gia, góp phần đa dạng hóa nguồn lực và giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi, dự thảo Luật đã có bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy xã hội hóa hoạt động dự trữ quốc gia, góp phần đa dạng hóa nguồn lực, nâng cao tính linh hoạt của dự trữ quốc gia nhằm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Đại biểu Phạm Văn Thịnh (Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh) đề xuất thực hiện thí điểm xã hội hóa cả việc dự trữ hàng hóa, không chỉ là kho bãi. Theo đó, Nhà nước chỉ cần mua một phần hàng hóa thật (ví dụ 70 tấn), phần còn lại (30 tấn) dựa trên tồn kho luân chuyển và năng lực sản xuất của doanh nghiệp sản xuất và thương mại, giúp tiết kiệm tiền, kích thích kinh tế và giảm giá thành. ĐBQH yêu cầu cơ quan thẩm tra đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, bổ sung các quy định về ưu đãi về thuế, tài chính, tín dụng, cơ chế mua lại và luân phiên hàng dự trữ, nhằm đảm bảo chia sẻ rủi ro, hài hòa lợi ích giữa nhà nước và doanh nghiệp để xã hội hóa hoạt động dự trữ.
Kết luận: Dự Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) 2025 sẽ được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 10 là một văn kiện pháp lý quan trọng, đánh dấu bước tiến trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lực dự trữ quốc gia. Có thể nói dự Luật thể hiện một tinh thần cải cách sâu rộng, tập trung vào phân cấp, phân quyền triệt để và đặc biệt là bổ sung cơ chế Dự trữ Chiến lược nhằm đa dạng hóa công cụ điều tiết thị trường và đảm bảo tự chủ chiến lược quốc gia. Cùng với đó, việc thúc đẩy xã hội hóa hoạt động dự trữ cũng là một giải pháp tiềm năng giúp giảm gánh nặng ngân sách và nâng cao tính linh hoạt.
…(Còn tiếp)