Khi xử lý tài sản của người phải thi hành án đang thế chấp cho tổ chức tín dụng (TCTD) mà TCTD đó không phải là người được thi hành, việc áp dụng quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD đã bộc lộ một số bất cập khi hạn chế quyền của Chấp hành viên trong xử lý tài sản theo Điều 90 Luật THADS.
Tài sản đang thế chấp có thể bị kê biên
Theo quy định tại Điều 90 Luật THADS về kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp thì trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác ngoài tài sản đang thế chấp tại TCTD mà tài sản đó có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án thì Chấp hành viên có quyền kê biên để thi hành án.
Đồng thời, khoản 3, Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP cũng quy định: “Đối với tài sản đã được cầm cố, thế chấp hợp pháp mà kết quả xác minh tại thời điểm thi hành án cho thấy tài sản có giá trị bằng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ phải thanh toán theo hợp đồng cầm cố, thế chấp thì Chấp hành viên phải thông báo bằng văn bản cho người nhận cầm cố, thế chấp biết nghĩa vụ của người phải thi hành án và yêu cầu khi thanh toán hết nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp phải thông báo cho cơ quan THADS biết”. Trường hợp này, cơ quan THADS chỉ được kê biên, xử lý tài sản sau khi tài sản đã được giải chấp hoặc khấu trừ phần tiền còn lại sau khi Ngân hàng đã xử lý tài sản để thanh toán hợp đồng đã ký, nếu có.
Ví dụ: Năm 2015, cơ quan THADS đang tổ chức thi hành án buộc ông Trần Văn A phải thi hành án cho bà Nguyễn Thị B số tiền 500 triệu đồng. Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên xác minh được biết ông A có duy nhất quyền sử dụng đất diện tích 400m2 đang thế chấp tại Ngân hàng X để vay số tiền 1 tỷ đồng.
Trong trường hợp này, ở thời điểm chưa có Nghị quyết 42/2017/QH14 nên Chấp hành viên áp dụng Điều 90 Luật THADS để tiến hành xác minh quyền sử dụng đất của ông A. Theo đó, nếu kết quả xác minh cho thấy tài sản này có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm là 1 tỷ đồng và chi phí cưỡng chế thi hành án thì Chấp hành viên tiến hành kê biên tài sản để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án và thông báo cho ngân hàng X biết về việc kê biên, quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng X được bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Trường hợp nếu kết quả xác minh cho thấy giá trị tài sản của ông A bằng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ phải thanh toán là 1 tỷ thì Chấp hành viên phải thông báo bằng văn bản cho Ngân hàng X biết nghĩa vụ của ông A đang phải thi hành án và yêu cầu Ngân hàng X khi thanh toán hết nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc khi xử lý tài sản của ông A phải thông báo cho cơ quan THADS biết. Nếu ngân hàng X giải chấp tài sản của ông A thì cơ quan THADS kê biên tài sản đó để thi hành án hoặc nếu ngân hàng xử lý tài sản của ông A còn dư tiền thi cơ quan THADS tiến hành thu khoản tiền đó để bảo đảm thi hành án theo quy định tại khoản 3, Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP.
Trường hợp Ngân hàng X thông báo cho cơ quan thi hành án biết Ngân hàng đang xử lý tài sản của ông A để thu hồi nghĩa vụ bảo đảm thì Chấp hành viên không được kê biên mà thực hiện việc phối hợp bằng văn bản với ngân hàng để yêu cầu ngân hàng thông báo kết quả xử lý tài sản của ông A. Nếu sau khi ngân hàng xử lý thanh toán hết nghĩa vụ bảo đảm mà ông A còn tiền thì cơ quan THADS có trách nhiệm thu giữ khoản tiền đó để thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 4 về kê biên, xử lý tài sản để đảm bảo thi hành án của Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 1/8/2016 quy định một số vấn đề về thủ tục THADS và phối hợp liên ngành trong THADS.
Quyền của Chấp hành viên đang bị hạn chế
Tuy nhiên, pháp luật về THADS cũng quy định trong trường hợp khi Chấp hành viên kê biên xử lý tài sản theo Điều 90 Luật THADS mà quá trình xử lý tài sản thế chấp kết quả cho thấy sau nhiều lần giảm giá mà giá của tài sản sau khi giảm giá không lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án thì người có thẩm quyền ra quyết định về thi hành án có trách nhiệm ra ngay quyết định thu hồi quyết định cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 37 Luật THADS. Đồng thời, có văn bản yêu cầu người nhận cầm cố, nhận thế chấp thực hiện theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 4 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC.
Kể từ khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 có hiệu lực thi hành thì quyền xử lý tài sản của Chấp hành viên trong trường hợp này bị hạn chế. Cụ thể, Điều 11 Nghị quyết 42 quy định: “Các tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên phải thi hành án đang bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều 90 của Luật THADS, trừ trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu.”
Như vậy, theo quy định trên có thể thấy khi cơ quan THADS đang tổ chức thi hành án mà xác định người phải thi hành án có tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại các TCTD thì phải kết hợp áp dụng quy định tại Điều 11 Nghị quyết 42 và quy định tại Điều 90 Luật THADS để đáp ứng được điều kiện cần (thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu) và điều kiện đủ (giá trị tài sản lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án và không có tài sản khác để thi hành án) trong quá trình giải quyết vụ việc.
Quy định của Nghị quyết 42 đã hạn chế quyền của Chấp hành viên khi xử lý tài sản của người phải thi hành án theo Điều 90 Luật THADS. Trong khi đó, thực tế hiện nay cho thấy, các vụ việc thi hành án mà cơ quan THADS thụ lý giải quyết khi xác minh tài sản thì đa số tài sản đều đang thế chấp bảo đảm tại các TCTD. Vì vậy, cần sửa đổi quy định này để tạo thuận lợi cho Chấp hành viên khi xử lý tài sản thi hành án.
Theo baophapluat.vn
Nguồn bài viết: https://baophapluat.vn/tu-phap/can-tao-thuan-loi-khi-xu-ly-tai-san-bao-dam-dang-the-chap-tai-ngan-hang-479890.html