Thực tiễn thi hành Nghị định số 123/2020/NĐ-CP bộc lộ một số vướng mắc cần được sửa đổi, bổ sung
Bộc lộ nhiều vướng mắc, khó khăn
Bộ Tài chính cho biết, thực hiện Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14, căn cứ Quyết định số 936/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 123/2020/NĐ-CP về hóa đơn, chứng từ với mục tiêu là áp dụng hóa đơn điện tử (HĐĐT) đối với các doanh nghiệp, tổ chức, hộ cá nhân kinh doanh từ ngày 01/7/2022, khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân đáp ứng điều kiện về hạ tầng công nghệ thông tin áp dụng quy định về HĐĐT trước ngày 01/7/2022.
Tháng 11/2021, Bộ Tài chính đã công bố triển khai hệ thống HĐĐT áp dụng giai đoạn 1 tại 6 tỉnh, thành phố. Đến tháng 4/2022, Bộ Tài chính đã triển khai hệ thống HĐĐT trên toàn quốc (tại 57 tỉnh, thành phố còn lại).
Theo Bộ Tài chính, đến hết ngày 30/6/2022, có 100% doanh nghiệp, tổ chức (851.372 đơn vị) và 100% hộ, cá nhân kinh doanh (65.576 hộ, cá nhân kinh doanh) theo phương pháp kê khai tại 63 tỉnh, thành phố đã chuyển đổi sang sử dụng HĐĐT theo Nghị định số 123/2020/NĐ-CP. Lũy kế đến 24h ngày 31/5/2023, trên cả nước đã có 4,054 tỷ HĐĐT đã được cơ quan thuế tiếp nhận và xử lý, trong đó có hơn 1,177 tỷ hóa đơn có mã và 2,877 tỷ hóa đơn không mã. Đồng thời, đã có 18.933 doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh đăng ký sử dụng HĐĐT có mã của cơ quan thuế khởi tạo từ máy tính tiền với số lượng HĐĐT cơ quan thuế đã tiếp nhận và xử lý đạt hơn 6,5 triệu hóa đơn.
Việc sử dụng HĐĐT trên cả nước đã góp phần hỗ trợ cơ quan thuế trong việc quản lý rủi ro, quản lý thuế, hỗ trợ cơ quan thuế thực hiện kết nối, chia sẻ và cung cấp dữ liệu HĐĐT cho các cơ quan khác của nhà nước, dữ liệu về HĐĐT là nền tảng quan trọng để quản lý thuế hiệu quả, là động lực cho công cuộc chuyển đổi số của ngành thuế nói riêng và góp phần thúc đẩy chuyển đổi số trong doanh nghiệp và của toàn xã hội nói chung. Với các doanh nghiệp, hộ kinh doanh, việc áp dụng HĐĐT góp phần làm giảm chi phí quản lý, sử dụng hóa đơn, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, giảm thiểu nhiều rủi ro so với sử dụng hóa đơn giấy.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, Nghị định số 123/2020/NĐ-CP cũng bộc lộ một số vướng mắc cần được sửa đổi, bổ sung như cần sửa đổi, bổ sung các quy định về nguyên tắc lập hóa đơn, thời điểm lập hóa đơn, nội dung hóa đơn, xử lý hóa đơn lập sai nhằm quy định minh bạch, tạo thuận lợi cho người nộp thuế thực hiện. Bổ sung giải pháp nhằm phòng ngừa, hạn chế gian lận khi doanh nghiệp đăng ký sử dụng hóa đơn và trong quá trình sử dụng HĐĐT. Hoàn thiện các quy định liên quan đến quản lý, sử dụng biên lai, chứng từ điện tử. Bổ sung quy định về trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ HĐĐT; trách nhiệm của cán bộ thuế…
Sửa đổi, bổ sung quy định về áp dụng hóa đơn điện tử
Tại Điều 13 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP quy định về việc áp dụng hóa đơn điện tử, các trường hợp được cấp hóa đơn điện tử theo từng lần phát sinh và việc áp dụng HĐĐT trong một số trường hợp.
Thực tế phát sinh trường hợp doanh nghiệp có nhiều hoạt động kinh doanh trong đó có ngành nghề thuộc diện được áp dụng HĐĐT không có mã và hoạt động kinh doanh khác thì quy định hiện hành chưa hướng dẫn rõ việc áp dụng HĐĐT, ngoài ra thực tế có trường hợp doanh nghiệp đang làm thủ tục phá sản nhưng vẫn có hoạt động kinh doanh dưới sự giám sát của Tòa án thì cần đưa vào diện áp dụng HĐĐT theo từng lần phát sinh để cơ quan thuế kiểm soát quản lý. Thủ tục cấp hóa đơn điện tử theo từng lần phát sinh chưa rõ về việc kê khai, nộp thuế cũng như việc xử lý sai sót.
Để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp và minh bạch trong việc sử dụng hóa đơn, Bộ Tài chính đề xuất bổ sung quy định đối với doanh nghiệp có nhiều hoạt động kinh doanh trong đó có ngành nghề quy định tại Khoản 2 Điều 91 Luật Quản lý thuế, các hoạt động kinh doanh khác không thuộc nhóm ngành nghề nêu trên và doanh nghiệp không thuộc trường hợp rủi ro cao về thuế thì doanh nghiệp đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử không có mã của cơ quan thuế cho toàn bộ hoạt động kinh doanh.
Bổ sung trường hợp được cấp HĐĐT lẻ theo từng lần phát sinh gồm: Hộ kinh doanh sau khi giải thể, phát sản, doanh nghiệp đang làm thủ tục phá sản nhưng vẫn có hoạt động kinh doanh dưới sự giám sát của Tòa án; Doanh nghiệp chế xuất khi có hoạt động thanh lý tài sản.
Quy định rõ về việc kê khai, nộp thuê cùng như việc xử lý sai sót.
Bổ sung quy định áp dụng HĐĐT của tổ chức cho thuê tài chính, hoạt động kinh doanh dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý với dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 123/2020/NĐ-CP đề xuất nhiều giải pháp ngăn chặn gian lận hoá đơn điện tử
Sửa đổi, bổ sung quy định khi đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử
Đáng chú ý, Bộ Tài chính đề xuất bổ sung quy định liên quan giải pháp pháp nhằm phòng ngừa, hạn chế gian lận khi doanh nghiệp đăng ký sử dụng hoá đơn điện tử và trong quá trình sử dụng hoá đơn điện tử, quy định về trách nhiệm của tổ chức cung cấp dịch vụ hóa đơn điện tử
Hiện nay, Điều 15 Nghị định 123/2020/NĐ-CP quy định rõ về việc đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử. Theo đó, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, hộ, cá nhân kinh doanh không thuộc đối tượng ngừng sử dụng hóa đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 16 Nghị định này đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử thông qua tổ chức cung cấp dịch vụ hóa đơn điện tử.
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, thực tế áp dụng hoá đơn điện tử thời gian qua phát sinh trường hợp do việc đăng ký thành lập doanh nghiệp quá dễ nên một số đối tượng thành lập doanh nghiệp không có hoạt động sản xuất, kinh doanh mà chỉ lấy pháp nhân, sau đó, đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử qua mạng và thực hiện hành vi bán khống hóa đơn điện tử.
Qua rà soát dữ liệu hóa đơn điện tử trong công tác quản lý thuế, cơ quan thuế đã phát hiện nhanh một số trường hợp xuất hoá đơn điện tử với doanh số lớn “đột biến”. Ngoài ra cơ quan cảnh sát điều tra tại một số tỉnh cũng đã thực hiện điều tra một số vụ án liên quan gian lận xuất hóa đơn điện tử khống.
Để giải quyết vấn đề trên, Bộ Tài chính đề xuất bổ sung tại Điều 15 các quy định phòng ngừa gian lận từ khâu đăng ký sử dụng hóa đơn theo hướng cơ quan thuế xác định nhân thân người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tại cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư khi người nộp thuế đăng ký sử dụng hóa đơn lần đầu và khi người nộp thuế đăng ký thay đổi thông tin hoá đơn điện tử.
Cụ thể, ở khâu đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử, hệ thống của Tổng cục Thuế sẽ tự động đối chiếu thông tin về nhân thân người đại diện theo pháp luật, nhân thân của chủ hộ cá nhân tại Hệ thống Định danh và xác thực điện tử (VneID), trừ trường hợp người đại diện theo pháp luật là người nước ngoài.
Trường hợp kết quả xác thực người đại diện theo pháp luật khớp đúng thì cơ quan thuế sẽ chấp thuận thông báo sử dụng hóa đơn điện tử; trường hợp xác thực không khớp đúng hoặc không có thông tin hoặc thuộc diện rủi ro cao thì người nộp thuế thực hiện giải trình.
Còn đối với trường hợp thay đổi thông tin hoá đơn điện tử, cơ quan thuế giám sát tự động qua hệ thống VneID nêu trên. Trường hợp người nộp thuế thay đổi thông tin sử dụng hóa đơn điện tử nhưng không thay đổi thông tin đăng ký thuế, Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế gửi yêu cầu đề nghị người nộp thuế xác nhận qua địa chỉ thư điện tử hoặc điện thoại của chủ doanh nghiệp hoặc người đại diện theo pháp luật theo thông tin trong hồ sơ đăng ký thuế.
Sửa đổi, bổ sung quy định về ngừng sử dụng hóa đơn điện tử
Tại Điều 16 Nghị định 123/2020/NĐ-CP đã quy định 7 trường hợp ngừng sử dụng HĐĐT. "Thực tế trong thời gian qua đã phát sinh một số vụ án gian lận trong quá trình sử dụng HĐĐT liên quan hoàn thuế giá trị gia tăng", Bộ Tài chính thông tin.
Để phòng chống gian lận trong quá trình sứ dụng hoá đơn điện tử và xuất phát từ thực tiễn, Bộ Tài chính đề xuất bổ sung thêm 5 trường hợp ngừng sử dụng hoá đơn điện tử.
Thứ nhất, trường hợp cơ quan chức năng phát hiện và thông báo cho cơ quan thuế dấu hiệu doanh nghiệp được thành lập để thực hiện mua bán, sử dụng hóa đơn điện tử không hợp pháp hoặc sử dụng không hợp pháp hóa đơn điện tử.
Thứ hai, người nộp thuế thuộc trường hợp giám sát trọng điểm về thuế và thuộc danh sách do cơ quan thuế xác định sau khi cơ quan thuế áp dụng các biện pháp giám sát theo quy định pháp luật về quản lý thuế.
Người nộp thuế có dấu hiệu bất thường khác theo tiêu chí đánh giá rủi ro về thuế của cơ quan thuế.
Thứ ba, trường hợp cơ quan thuế chuyển hồ sơ doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, hộ, cá nhân kinh doanh sang cơ quan công an theo tin báo tội phạm.
Thứ tư, hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp kê khai chuyển đổi sang phương pháp khoán hoặc nộp thuế theo từng lần phát sinh.
Thứ năm, người nộp thuế có văn bản đề nghị tạm ngừng sử dụng hóa đơn điện tử.
Sau khi hoàn thiện thì sẽ có 12 trường hợp ngừng sử dụng hoá đơn điện tử.
Như vậy, theo thống kê, về thủ tục của cơ quan thuế, có 5 trường hợp hệ thống của cơ quan thuế sẽ tự động ngừng việc sử dụng hoá đơn điện tử của doanh nghiệp; 4 trường hợp cơ quan thuế ban hành thông báo đề nghị người nộp thuế ngừng sử dụng hoá đơn điện tử.
Còn lại 3 trường hợp cơ quan thuế đề nghị người nộp thuế giải trình hoặc bổ sung thông tin liên quan đến việc sử dụng hoá đơn điện tử trước khi quyết định ngừng sử dụng hoá đơn điện tử hoặc tiếp tục sử dụng hoá đơn điện tử…