Bàn về áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai

13/05/2024 10:17

(Pháp Lý). Đất đai là của cải có ý nghĩa vô cùng to lớn với người dân Việt Nam, đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển kinh tế- xã hội nước ta. Đất đai vừa là tài sản có giá trị cao vừa là đối tượng của các giao dịch trên thị trường nên tranh chấp, khúc mắc về đất đai là vấn đề không thể tránh khỏi. Giải quyết khiếu nại về đất đai là nội dung hoạt động của quản lý nhà nước về đất đai do các cơ quan có thẩm quyền giải quyết trên cơ sở pháp luật để bảo vệ quyền và bảo đảm lợi ích chính đáng của người dân. Trong bối cảnh nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nhà nước đang nỗ lực hoàn thiện pháp luật thì ý nghĩa hoạt động khiếu nại về đất đai là lĩnh vực thường xuyên xẩy ra khiếu nại nhiều hơn so với các lĩnh vực khác. Hoạt động giải quyết khiếu nại về đất đai là vấn đề quan trọng và cấp bách cần được quan tâm đúng mực. Nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại về đất đai vừa đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người dân, đảm bảo quản lý hiệu quả về đất đai, tránh thất thoát ngân sách nhà nước. Có như vậy đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao về kinh tế.

1-1715249445.png

Ảnh minh hoạ

Bài viết sau, tác giả Trần Thị Thùy (Khoa Đào tạo Đại học, Học viện Tòa án)  từ công tác đào tạo nghiên cứu thực tế, phân tích thực trạng áp dụng quy định giải quyết khiếu nại về đất đai hiện nay. Đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai trong thực tế.

1. Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai

Khiếu nại về đất đai ngày một gia tăng theo xu hướng phức tạp, gay gắt, xảy ra hầu hết ở khắp các địa phương trên toàn quốc. Với thực trạng đó, giải quyết khiếu nại về đất đai trở thành vấn đề cấp bách được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng đầu và luôn giám sát, chỉ đạo sát sao nhằm đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai là tập hợp những quy phạm pháp luật quy định về chủ thể, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, là cơ sở làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật về giải quyết khiếu nại về đất đai.

Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác giải quyết khiếu nại của công dân, cơ quan, tổ chức. Đó chính là biện pháp nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, qua đó giải quyết hiệu quả, triệt để những vụ việc khiếu nại về đất đai góp phần nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong lĩnh vực đất đai. Khiếu nại về đất đai ngày càng trở nên phức tạp, trở thành một thách thức lớn đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc giải quyết dứt điểm các khiếu nại về đất đai sao hợp lý, đúng luật là một bài toán khó khăn nhưng cần thiết và bắt buộc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải làm được bởi lẻ nó có ý nghĩa quan trọng trong việc duy trì ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong cả nước và đối với từng vùng, miền, địa phương.

Tại Điều 4 Luật khiếu nại 2011, nguyên tắc khiếu nại và giải quyết khiếu nại được quy định như sau: “Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại phải được thực hiện theo quy định của pháp luật, bảo đảm khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời”. Như vậy, hoạt động giải quyết khiếu nại cần tuân theo những nguyên tắc sau:

Nguyên tắc đúng pháp luật, nguyên tắc này phải đòi hỏi hoạt động giải quyết khiếu nại đất đai phải đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định. Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào có thể tham dự trái pháp luật vào quá trình và kết quả giải quyết khiếu nại và quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật phải được tôn trọng và thực hiện.

Nguyên tắc khách quan, kịp thời là trong giải quyết khiếu nại đất đai nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và trong việc phát triển, phòng ngừa, sửa chữa những vi phạm trong hoạt động quản lý nhà nước. Tính khách quan trong hoạt động giải quyết khiếu nại đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại xem xét, đánh giá trung thực tình hình vụ việc, khách quan trong thu thập, xem xét tài liệu, bằng chứng khách quan trong kết quả giải quyết khiếu nại.

Nguyên tắc công khai, dân chủ là nguyên tắc công khai đảm bảo hoạt động giải quyết khiếu nại đất đai phải luôn công khai, minh bạch, bảo đảm đúng các quy định của pháp luật. Tính dân chủ thể hiện khi ý kiến, nguyện vọng chính đáng của công dân được tôn trọng.

Tuy nhiên, khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai là lĩnh vực rất phức tạp, liên quan đến nhiều yếu tố như lịch sử, chủ thể quản lý... Để hoạt động này được thực hiện có hiệu quả, đảm bảo tính công bằng thì bên cạnh tuân thủ theo những nguyên tắc trên còn được dựa trên các nguyên tắc sau:

Thứ nhất, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý, Nhà nước chỉ giao quyền sử dụng cho công dân, Nhà nước có quyền thu hồi đất và người sử dụng đất được đền bù theo quy định của pháp luật. Do vậy, khi giải quyết vụ việc khiếu nại đất đai nói riêng hay tảnh chấp về đất đai nói chung đều phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền đại diện sở hữu của Nhà nước.

Thứ hai, giải quyết khiếu nại về đất đai phải căn cứ vào thời điểm phát sinh của vụ việc và chính sách tương ứng của từng thời kỳ. Do đó, khi giải quyết khiếu nại về đất đai ta không thể áp dụng chủ trương, chính sách của thời kỳ này để giải quyết vấn đề của thời kỳ trước hoặc sau đó.

Thứ ba, giải quyết các khiếu nại đất đai trên cơ sở tôn trọng quá trình sử dụng ổn định của các chủ sử dụng đất, kiên quyết bảo vệ thành quả Cách mạng và lợi ích của người sử dụng đất. Nhà nước tôn trọng các quyền sử dụng đất và bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện.

Thứ tư, khi giải quyết khiếu nại đất đai nếu phát sinh những vấn đề về kinh tế, lợi ích, vật chất ... cần phải đảm bảo sự hài hòa giữu lợi ích Nhà nước, con người và xã hội.

Thứ năm, giải quyết các khiếu nại đất đai trên nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Phát hiện và khắc phục kịp thời những sai sót trong quản lý Nhà nước về lĩnh vực đất đai góp phần bảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, nâng cao vai trò quản lý Nhà nước.

Luật khiếu nại 2011 quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại (từ Điều 17 đến Điều 26), các cá nhân có thẩm quyền trong hệ thống quản lý hành chính nhà nước gồm:

Chủ tịch UBND các cấp, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND và cấp tương đương, bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ. Trong giải quyết khiếu nại, chủ thể có thể khiếu nại theo hai cấp vì vậy, thẩm quyền giải quyết khiếu nại bao gồm thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu và thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai:

Thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu: chủ tịch UBND cấp xã, thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương, thủ trưởng cơ quan thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ là những chủ thể chỉ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính.

Thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai: Chủ tịch UBND cấp huyện, giám đốc sở và cấp tương đương thuộc UBND tỉnh, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ là những chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với những vụ việc thuộc quyền, đồng thời có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai đối với việc giải quyết nhưng vẫn còn khiếu nại.

Ngoài ra, Luật khiếu nại 2011 còn quy định thẩm quyền Chánh thanh tra các cấp trong việc giải quyết khiếu nại: “Giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp tiến hành kiểm tra, xác minh, kiến nghị, kết luận việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp khi được giao.”

Căn cứ vào các quy định của Luật khiếu nại 2011 và Thông tư số 07/2013 TT - TTCP ngày 30/09/2013 của Chính phủ quy định giải quyết khiếu nại, trình tự giải quyết khiếu nại như sau:

* Trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại lần đầu: Bước 1: Tiếp nhận đơn khiếu nại người khiếu nại, phải gửi đơn khiếu nại và các tài liệu có liên quan (nếu có) cho cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết.

Bước 2: Thụ lý đơn và chuẩn bị giải quyết khiếu nại, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, cơ quan nhận đơn thụ lý và ra Thông báo thụ lý. Sau thụ lý khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu phải kiểm tra lại QĐHC, HVHC bị khiếu nại. Người giải quyết khiếu nại phải tự mình xác minh hoặc giao cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp hoặc cơ quan, tổ chức mình tiến hành xác minh nội dung khiếu nại. Người giải quyết khiếu nại, cơ quan , tổ chức, được giao nhiệm vụ xác minh thành lập Đoàn xác minh hoặc Tổ xác minh lập kế hoạch xác minh nội dung khiếu nại.

Bước 3: Tiến hành nội dung khiếu nại, công bố quyết định xác minh nội dung khiếu nại tại cơ quan, tổ chức... Tổ chức gặp gỡ đối thoại với người khiếu nại, thẩm tra, xác minh nội dung khiếu nại sau đó báo cáo kết quả xác minh nội dung khiếu nại bằng văn bản với người giải quyết khiếu nại hoặc người ban hành quyết định thành lập Đoàn xác minh, Tổ xác minh.

Bước 4: Ra quyết định giải quyết khiếu nại và lập, quản lý hồ sơ giải quyết khiếu nại. Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý, đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày.

* Trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại lần hai:

Trình tự thủ tục của giải quyết khiếu nại lần hai cũng gồm 4 bước như giải quyết khiếu nại lần 1: tiếp nhận, thụ lý, tổ chức gặp gỡ, đối thoại với người khiếu nại, thẩm tra, xác minh nội dung khiếu nại và ra quyết đinh giải quyết khiếu nại lần hai. Tuy nhiên, có những điểm khác biệt sau:

Về thời gian giải quyết khiếu nại lần hai dài hơn thời gian giải quyết khiếu nại lần đầu, cụ thể thì khiếu nại lần hai không quá 45 ngày kể từ ngày thụ lý đối với vụ việc phức tạp hơn thì thời gian giải quyết không quá 60 ngày.

Về việc tổ chức đối thoại giải quyết khiếu nại lần đầu thì có thể đối thoại nếu yêu cầu của người khiếu nại và kết quả xác minh nội dung khiếu nại còn khác nhau, đối với giải quyết khiếu nại lần hai thì phải bắt buộc phải đối thoại với người có đơn khiếu nại.

Về việc công khai quyết định giải quyết khiếu nại: giải quyết khiếu nại lần đầu không yêu cầu phải công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại trong khi người giải quyết khiếu nại lần hai.

2-1715249895.jpg

Ảnh minh hoạ

2. Thực trạng áp dụng quy định giải quyết khiếu nại về đất đai

Thứ nhất, những kết quả đạt được:

- Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo tiếp tục được quan tâm. Qua gần 10 năm thực hiện Luật tiếp công dân, hệ thống tiếp công dân cả nước đã tiếp tục được củng cố tăng cường. Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo được chú trọng.

- Ý thức, trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong chỉ đạo, điều hành, xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo nhất là các vụ việc phức tạp, đông người được nâng lên.

Hầu hết các địa phương đã nghiêm túc rà soát, giải quyết khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng theo chỉ đạo tại Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 39/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội, Chi thị số 14/CT-TTg ngày 18/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ và kế hoạch của Thanh tra Chính phủViệc kiểm tra, rà soátgiải quyết các vụ việc tồn đọng, phức tạp đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên. Nhiều vụ việc có sự vào cuộc của Đoàn Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thểĐoàn Luật sư cùng với các cấp chính quyền, tạo được sự thống nhất về nhận thức và hành động, góp phần bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm an ninh, trật tự xã hội và ổn định tình hình.

- Công tác tiếp công dân đã từng bước gắn với giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhiều vụ việc được giải quyết dứt điểm ngay tại cơ sở; việc đôn đốc, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo có hiệu lực pháp luật được quan tâm hơn và đã có những chuyển biến tích cực, tỷ lệ thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo trong kỳ đạt khá cao.

- Sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương, giữa Thanh tra Chính phủ với các bộ, ngành, địa phương chặt chẽ và hiệu quả hơn trước; qua phối hợp đã tạo sự đồng thuận trong quá trình giải quyết, nhiều vụ việc đã chấm dứt khiếu nại kéo dài, kết quả giải quyết có lý, có tình và có sức thuyết phục hơn.

- Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã giải quyết được nhiều nội dung thường phát sinh khiếu nại, tố cáo về đất đai như quy hoạch, giao đất, thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... Bộ Tài nguyên và Môi trường đã kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương tổ chức thực hiện Luật, theo dõi chặt chẽ tình hình thực hiện và kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành.

- Việc ban hành quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai, nhất là trong việc giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã có chuyển biết rõ rệt, hạn chế tối đa việc thu hồi đất "tùy tiện" làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người sử dụng đất.

- Công tác kiểm tra, kiểm soát việc quản lý, sử dụng đất đã được tăng cường về số lượng, điều chỉnh về đối tượng, trong đó chú trọng thanh tra, kiểm tra trách nhiệm quản lý nhà nước và việc chấp hành chính sách, pháp luật đất đai của người sử dụng đất. Kết quả đã góp phần phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật đất đai, khắc phục kịp thời nhiều tồn tại, bất cập trong quản lý, sử dụng đất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện văn bản quy định pháp luật đất đai.

Thứ hai, một số hạn chế và nguyên nhân

- Trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan hành chính tại một số nơi chưa cao, chưa làm tròn trách nhiệm tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; đội ngũ cán bộ công chức làm nhiệm vụ này còn hạn chế cả về năng lực và ý thức trách nhiệm, nhất là kỹ năng tiếp công dân. Một số địa phương có biểu hiện né tránh, đùn đẩy trách nhiệm.

- Mặc dù khiếu nại có giảm nhưng lại gia tăng số đoàn khiếu kiện đông người. Ở địa phương, nhất là cấp cơ sở vẫn còn nhiều vụ việc giải quyết chậm, chất lượng hạn chế, sai sót trình tự, thủ tục, chỉ chú trọng giải quyết hết thẩm quyền mà chưa quan tâm đến giải quyết dứt điểm vụ việc; nhiều vụ việc công dân khiếu kiện vượt cấp lên Trung ương. Cụ thể, trong lĩnh vực đất đai, tài nguyên, môi trường, theo báo cáo của Bộ Tài nguyên & Môi trường tình trạng công dân gửi đơn khiếu nại vượt cấp lên các cơ quan Trung ương vẫn chiếm tỷ lệ cao (khoảng 85% số lượng các vụ việc chưa được địa phương giải quyết công dân gửi đơn đến Bộ Tài nguyên & Môi trường tiếp nhận) .

- Một số địa phương giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng ban đầu triển khai tốt, nhưng sau thực hiện chậm, thiếu kiên trì, quyết tâm chưa cao; chưa quan tâm gắn giải quyết với công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật; chưa có giải pháp hữu hiệu đối với người khiếu nại cố chấp, cố tinh đeo bám, nghe theo các thế lực khác xúi giục, kích động, tập trung đông người, gây mất an ninh trật tự.

- Tuy đã có tiến bộ nhưng việc thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo đã có hiệu lực pháp luật tại một số địa phương chưa nghiêm túc, triệt để, nhất là khi kết luận của cấp có thẩm quyền không đồng thuận với cơ quan có trách nhiệm giải quyết; việc thực hiện chỉ đạo của cấp trên trong một số trường hợp có lúc chưa nghiêm, thiếu dứt điểm, còn để kéo dài.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo hiệu quả chưa cao. Một số nơi chưa quan tâm, tạo điều kiện cho cán bộ làm công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo có nơi chưa nghiêm túc, chất lượng hạn chế.

Cơ chế giải quyết khiếu nại chưa đảm bảo đầy đủ tính khách quan, công khai, dân chủ trong quá trình giải quyết; việc khởi kiện của người dân tại Tòa án còn bị hạn chế; trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại chưa cụ thể, rõ ràng, nhất là giải quyết khiếu nại lần đầu còn quá phức tạp, thời hạn giải quyết dài, chưa tạo thuận lợi cho công dân; chưa đề cao vai trò của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và của luật sư trong quá trình giải quyết khiếu nại; thiếu chế tài cụ thể trong việc xử lý trách nhiệm thực hiện công tác giải quyết khiếu nại; hiệu lực thi hành các quyết định giải quyết khiếu nại chưa cao; chưa gắn trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc tổ chức tiếp công dân. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật hiện hành có quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại, nhất là trong lĩnh vực đất đai... còn có sự mâu thuẫn, chồng chéo, chưa tạo được thống nhấttrong các quy định về khiếu nại, giải quyết khiếu nại

Một số lĩnh vực khiếu nại đất đai tồn tại nhiều hạn chế:

+ Khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ tái định cư:

Một số dự án chưa có khu tái định cư hoặc chưa quyết toán tái định cư đã quyết định thu hồi đất thổ cư. Trường hợp thu hồi đất ở thì tiền bồi thường không đủ để mua nhà mới trong khu tái định cư. Giá đất bồi thường thấp hơn giá thị trường của đất cùng loại, nhất là đối với đất nông nghiệp tại đô thị, khu dân cư nông thôn.

Mức bồi thường đất nông nghiệp thường không đủ để nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp tương tự hoặc không đủ để nhận chuyển nhượng đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp để chuyển sang nghề khác.

Nhìn chung, thực trạng giải quyết khiếu nại về đất đai của các địa phương chưa coi trọng việc hình thành các khu tái định cư chung cho các dự án trong cùng khu vực, một số khu tái định cư đã được hình thành nhưng điều kiện không tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ, giá nhà ở tại các khu tái định cư còn quá cao nên số tiền bồi thường nhận được không đủ để chi trả cho các căn nhà trong khu tái định cư.

Các quy định của pháp luật về đất đai để giải quyết vấn đề tái định cư khá đầy đủ, nhưng các địa phương chưa thực hiện tốt, thậm chí một số địa phương chưa quan tâm giải quyết công tác này, dẫn đến khiếu nại kéo dài.

+ Khiếu nại về việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Đây là một khiếu nại rất phổ biến hiện nay. Khiếu nại này phát sinh một phần từ lỗi của cơ quan có thẩm quyền, như: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có sai sót đứng tên chủ sở hữu, thửa đất, diện tích… Có những trường hợp không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không có lý do chính đáng hoặc không rõ ràng. Các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết đã không giải thích rõ cho người dân biết lý do không cấp giấy chứng nhận. Quá trình xử lý hồ sơ chậm gây phiền hà, nhũng nhiễu…, gây khó khăn cho người sử dụng đất. Một lý do khác là quy hoạch bị đình chỉ hoặc người dân không chấp nhận mặc dù lý do không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chính đáng.

3-1715249895.jpg

Ảnh minh hoạ

Thứ ba, một số nguyên nhân hạn chế như sau:

- Một số cơ chế, chính sách pháp luật chưa được hoàn thiện, hoặc thiếu đồng bộ, việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành chậm, còn nhiều quy định chưa phù hợp với thực tiễn nhưng chậm được bổ sung, sửa đổi. Trong đó, chính sách, pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đã có nhiều thay đổi, tuy nhiên quyền lợi của các tổ chức kinh tế với Nhà nước và người đang sử dụng đất chưa được hài hòa; Nhà nước đã quan tâm cải thiện chính sách theo hướng có lợi cho người bị thu hồi đất, tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết được các trường hợp mới, nhưng lại phát sinh các trường hợp bị thu hồi từ những năm trước so bì. Một số vụ việc khiếu nại về đất đai, nhà cửa do lịch sử để lại, trong khi đó chính sách của Nhà nước đã thay đổi không còn phù hợp hoặc không thể giải quyết được nên công dân bức xúc, khiếu nại kéo dài nhiều năm, nay rất khó khăn để giải quyết dứt điểm.

- Công tác chỉ đạo, điều hành và quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực ở một số địa phương còn nhiều tồn tại, yếu kém, nhất là trong công tác quản lý, sử dụng đất đai như: việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn để xảy ra sai sót, không theo quy hoạch, quy định của pháp luật. Việc quản lý nhà nước về đất đai ở một số địa phương còn buông lỏng, hồ sơ địa chính lưu trữ không đầy đủ, thiếu cập nhật thường xuyên; Tình trạng lấn chiếm đất công, chuyển đổi mục đích sử dụng đất không đúng quy định, xây dựng nhà ở, công trình trái phép nhưng không được kiểm tra, xử lý kịp thời. Một số dự án thu hồi đất làm thủ tục thiếu chặt chẽ, không đúng quy định, không tạo sự đồng thuận với người dân trước khi thu hồi đất, lập phương án bồi thường, giải quyết quyền lợi của dân chưa thỏa đáng, thiếu công khai, minh bạch, dân chủ, công bằng nên công dân không nhất trí; có dự án sau khi thu hồi nhưng không sử dụng, để đất đai hoang hoá, lãng phí, công dân thiếu đất sản xuất, sử dụng, càng bức xúc. Có những vụ việc xuất phát từ trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức còn hạn chế, thậm chí có hành vi vi phạm pháp luật, vụ lợi cá nhân, thiếu khách quan, công tâm trong thực thi công vụ làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Tỷ lệ lỗi trong các quyết định, hành vi hành chính bị khiếu nại, tố cáo khá cao, hơn 4 khiếu nại, tố cáo đã phân tích kết quả giải quyết được công nhận là đúng toàn bộ, hoặc đúng một phần.

- Qua tổng kết thi hành Luật khiếu nại cho thấy quá trình thực hiện còn bất cập: Về chủ thể khiếu nại; Về ủy quyền khiếu nại và ủy quyền cho luật sư; Về đại diện thực hiện việc khiếu nại; Về quyền của người khiếu nại, luật sư và trợ giúp viên pháp lý; Về tổ chức đối thoại; Về hình thức khiếu nại; Về đình chỉ việc giải quyết khiếu nại; Về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại; Về tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật; Về xử lý đối với các hành vi vi phạm; Về xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật; Về thời hạn giải quyết khiếu nại; Về thời hiệu khiếu nại; Về nhiều người khiếu nại cùng một nội dung; Về trưng cầu giám định và đối tượng bị khiếu nại.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tiếp công dân, khiếu nại hiệu quả chưa cao. Ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người khiếu nại còn hạn chế nên tỉ lệ khiếu nại sai còn khá nhiều. Qua kiểm tra việc thi hành pháp luật về tiếp công dân thấy một số bất cập trong các quy định: Về trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan đơn vị thuộc Bộ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện trong công tác tiếp công dân; Việc tổ chức tiếp công dân tại địa điểm tiếp công dân... Có những vụ việc đã được giải quyết đúng chính sách, pháp luật, có lý, có tỉnh, đã kiểm tra, rà soát, trả lời, có văn bản chấm dứt thụ lý giải quyết, nhưng công dân vẫn tiếp tục khiếu nại kéo dài, thậm chí có những phản ứng tiêu cực, gây rối trật tự hoặc bị kẻ xấu lợi dụng lôi kéo, kích động tham gia khiếu kiện đông người. Theo báo cáo của một số địa phương có số lượt tiếp đoàn đông người tăng, nguyên nhân chủ yếu do: Nhiều đoàn đông người cùng một nội dung, tập trung khiếu kiện đông người nhiều lần, ở nhiều cấp nhằm gây áp lực để được xem xét, giải quyết. Một số địa phương phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện nhiều dự án, công trình công cộng, hệ thống giao thông... việc đền bù giải phóng mặt bằng được công dân cho là chưa thỏa đáng; khiếu kiện liên quan đến đất đai trong việc thực hiện chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp “dồn điền, đổi thửa” liên quan đến nhiều cá nhân, hộ gia đình, việc hỗ trợ không được dân đồng thuận; việc chuyển đổi mô hình chợ...

- Những tồn tại có tính lịch sử, như: việc cho thuê, cho mượn, cầm cố đất trong nội bộ nhân dân; việc đưa đất vào các tập đoàn sản xuấtcác nông, lâm trường nhưng không có hoặc không lưu giữ được các tài liệu, sổ sách; khi trưng dụng, trưng thu, trưng mua, thu hồi đất không có quyết định, chưa bồi thường hoặc đã bồi thường nhưng không lưu giữ hồ sơ, giấy tờ về quyền sử dụng đất, hồ sơ quản lý đất đai không đầy đủ... đã gây khó khăn cho quá trình giải quyết các vụ việc khiếu nại, tranh chấp đất đai.

- Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những công việc khó khăn, đòi hỏi phải có trình độ, năng lực, kinh nghiệm, nhưng ở nhiều địa phương còn thiếu cán bộ hoặc cán bộ chưa đủ năng lực, kinh nghiệm, nhất là cấp huyện.

- Do nhận thức của người dân về sở hữu đất đai không đồng nhất với quy định của pháp luật; vẫn còn tồn tại các phong tục, tập quán truyền thống, luật tục với những quy định lạc hậu về sở hữu đất đai chưa được loại bỏ trong tiềm thức của một bộ phận dân chúng vốn ít có điều kiện tiếp xúc với pháp luật (đặc biệt là những người dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS, vùng căn cứ cách mạng, vùng biên giới). Một bộ phận nhân dân có ý thức chấp hành chưa cao, nên có những yêu cầu, đòi hỏi không đúng hoặc vượt quá quy định của pháp luật. Vẫn tồn tại quan niệm đất đai là của ông cha, tổ tiên để lại. Chính vì nhận thức không đúng này nên trong điều kiện kinh tế thị trường, đất đai ngày càng trở lên có giá thì tình trạng đòi lại đất của ông cha ngày càng gia tăng.

- Do nguồn gốc sử dụng đất của người dân không được xác định rõ ràng. Nhiều diện tích là đất lấn chiếm, phá rừng, quá trình sử dụng đất không liên tục… Có một số vụ việc khiếu nại về nhà, đất do lịch sử để lại như đòi lại đất nông nghiệp đưa vào hợp tác xã, nông trường sản xuất, sau đó giải thể, trả lại đất cho nông dân, đất sản xuất của dân nhưng sau đó đưa vào các nông - lâm trường quốc doanh và nay cổ phần hóa.

- Đội ngũ cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại ở cơ sở còn thiếu, yếu năng lực chuyên môn, giải quyết thiếu thỏa đáng và làm cho người dân đi khiếu nại nhiều lần và gửi đơn vượt cấp. Giải quyết khiếu nại còn để xảy ra thiếu sót, sai phạm hoặc thực hiện thiếu công khai, dân chủ, công bằng, dẫn đến người dân không chấp nhận, có trường hợp còn bức xúc dẫn đến tố cáo việc làm sai của cán bộ hoặc tập hợp đông người khiếu nại gay gắt. Một số cán bộ lợi dụng, tham nhũng, tiêu cực nhưng không bị xử lý nghiêm minh. Việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận QSDĐ còn để xảy ra sai sót, không theo quy hoạch và quy định của pháp luật.

- Công tác giám sát của cơ quan dân cử, của các tổ chức chính trị - xã hội đối với cơ quan hành chính tư pháp trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại chưa được tiến hành thường xuyên. Công tác giải quyết khiếu nại còn nhiều hạn chế, bất cập từ việc tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tổ chức thực hiện quyết định giải quyết. Tài liệu để giải quyết khiếu nại là hệ thống dữ liệu lưu trữ đất đai đã qua nhiều thời kỳ nên không còn chính xác, nhất là bản đồ địa chính qua nhiều biến động nên cơ sở pháp lý giải quyết không đảm bảo.

3.  Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai

Một là, nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, giảm bớt khiếu nại tiếp về đất  đai. Cho đến nay, chưa thấy có nghiên cứu về chất lượng giải quyết khiếu nại nói chung vàkhiếu nại về đất đai, khiếu nại về thu hồi đất nói riêng, vì vậy khó có tiêu chí để bàn về vấn đề này. Tuy nhiên, một thực tế có thể coi là nghịch lý, các cơ quan có trách nhiệm đã cố gắng nhiều trong việc giải quyết, tỷ lệ các vụ việc được coi là “đã giải quyết” luôn đạt tỷ lệ rất cao, thường trên 80% những vụ việc thuộc thẩm quyền nhưng số vụ việc khiếu nại về đất đai không có chiều hướng giảm mà lại tăng lên không ngừng. Điều đó có thể lý giải bởi tình trạng tiếp khiếu. Nói cách khác, dù vụ việc khiếu nại đã được cấp có thẩm quyền giải quyết nhưng nó không được chấm dứt mà người khiếu nại tiếp tục khiếu nại đến cấp cao hơn. Điều này cho thấy chất lượng và hiệu quả giải quyết khiếu nại còn chưa “bền vững” hay nói cách khác chất lượng giải quyết không cao. Vậy thì một tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng của giải quyết khiếu nại nói chung và giải quyết khiếu nại về đất đai nói riêng là tỷ lệ các vụ việc tiếp khiếu trong số các vụ việc được coi là “đã được giải quyết”.

Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều trong đó có việc người có thẩm quyền, do sức ép về trách nhiệm giải quyết, đã chỉ quan tâm đến ban hành quyết định giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn luật định mà chưa quan tâm nhiều đến hiệu quả của việc giải quyết, chưa quan tâm đến phương án giải quyết của mình có khả thi hay không? Có được người khiếu nại chấp nhận hay không? Chưa quan tâm đến việc tìm ra sự đồng thuận giữa các bên trong tranh chấp. Đặc biệt là chưa cố gắng thuyết phục người khiếu nại chấp nhận phương án giải quyết của chính mình. Nói một cách tiêu cực là giải quyết cho “xong chuyện”, cho hết trách nhiệm. Đây chính là vấn đề cần quan tâm và có biện pháp nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định giải quyết thuộc thẩm quyền của mình. Đây cũng phải coi là một trong những tiêu chí đánh giá hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại trong khi tiến hành thanh tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại hành chính nói chung và đất đai nói riêng.

Hai là, tăng cường đối thoại trong quá trình giải quyết khiếu nại về thu hồi đất. Đối thoại là khâu vô cùng quan trọng trong giải quyết khiếu nại, đặc biệt là khiếu nại về thu hồi đất đai. Khi xảy ra khiếu nại tức là đã hiện hữu một mâu thuẫn cần giải quyết. Trong việc giải quyết tất cả các mâu thuẫn thì đối thoại luôn là điều quan trọng. Đối thoại trước hết mang lại cho những người liên quan có được đầy đủ thông tin từ nhiều phía về vụ việc có tranh chấp. Đối thoại còn là cơ hội để các bên trong tranh chấp “thuyết phục” lẫn nhau bằng lý lẽ của mình và cuối cùng đối thoại giúp tìm ra một giải pháp có tính đồng thuận, một kết cục ít tốn kém nhất và bảo đảm hiệu lực thi hành của các quyết định giải quyết. Chính vì nhận thức ngày càng tốt hơn về ý nghĩa của sự đối thoại mà pháp luật đã ghi nhận và coi đó như là một khâu bắt buộc trong quá trình giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, nhận thức và quy định của pháp luật hiện nay chưa thực sự đầy đủ. Đối thoại mới chỉ được coi là một trong những thủ tục cần thiết mà chưa thấy đó là một phương pháp, thậm chí là một nguyên tắc quan trọng cần được tôn trọng và thực hiện trong giải quyết khiếu nại. Vì thế, pháp luật vẫn “loay hoay” với việc thực hiện nghĩa vụ này, khi thì lần đầu là bắt buộc, lần hai là cần thiết và ngược lại.

Ngoài ra, việc ủy quyền đối thoại, Luật quy định phải là người có thẩm quyền giải quyết (người đứng đầu cơ quan hành chính), trong khi một số văn bản dưới luật lại có xu hướng cho ủy quyền…vv và vv. Theo tác giả, bản chất của việc giải quyết khiếu nại là việc tự “sửa chữa” của cơ quan đã ra quyết định hoặc tự “xem xét lại” của người khiếu nại, cho nên đối thoại phải được đề cao như một nguyên tắc và được thực hiện trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp. Điều này cần được ghi nhận trong Luật Khiếu nại và thể hiện cụ thể trong các văn bản dưới luật. Điều đó có nghĩa việc đối thoại có thể được thực hiện nhiều lần với nhiều chủ thể tham gia ngoài người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.

Ba là, tăng cường sự tham gia của các tổ chức đoàn thể xã hội, đặc biệt là sự tham gia của Hội nông dân; mở rộng sự tham gia của luật sư, luật gia và các tổ chức, cá nhân khác trong việc tư vấn cho người khiếu nại.

Cần có quy định về sự tham gia của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp trong giải quyết khiếu nại về thu hồi đất, bởi lẽ, đây là lực lượng đại diện cho quyền lợi của các hội viên. Các tổ chức này vừa có thể tham vấn cho cơ quan nhà nước trong quá trình giải quyết nhưng đồng thời cũng có thể đóng vai trò là “trung gian hòa giải” để hạn chế sự xung đột giữa người có đất thu hồi đi khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khiếu nại về đất đai nói chung và về thu hồi đất nói riêng vừa phức tạp vừa nóng bỏng do nhiều nguyên nhân như đã được phân tích. Chính vì vậy mà sự tham gia của các thiết chế có tính chất “trung gian” là rất cần thiết để làm giảm bớt tính chất gay gắt của những vụ việc này.

Sự tham gia của các thiết chế này có nhiều ý nghĩa cho quá trình giải quyết. Trước hết, mang lại những thông tin thiết thực, cụ thể cho cơ quan và người có thẩm quyền trong việc xác định những vấn đề mang tính lịch sử hình thành của diện tích đất bị thu hồi, xác định đối tượng thuộc diện đền bù giải tỏa. Sự vào cuộc của các thiết chế trung gian, trước hết là các tổ chức chính trị xã hội tại địa phương cơ sở sẽ tạo ra sự thống nhất giữa Nhà nước và người có đất bị thu hồi nhờ việc làm cho người dân hiểu được mục đích, ý nghĩa cũng như lợi ích nhiều mặt của các công trình, dự án sẽ được triển khai sau khi thu hồi đất. Sự tham gia của các thiết chế trung gian rất quan trọng trong việc tư vấn cho người dân mỗi khi có thắc mắc khiếu nại xung quanh việc thu hồi đất. Điều này đã được minh chứng qua sự tham gia của luật sư tại Trụ sở Tiếp công dân của Trung ương. Những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ và có lẽ nên tiếp tục mở rộng sự tham gia không chỉ của luật sư mà còn có thể gồm cả những người vốn là các công chức hành chính có nhiều kinh nghiệm và kiến thức về quản lý đất đai, những người nguyên là cán bộ thanh tra có thực tiễn trong việc giải quyết khiếu nại thuộc lĩnh vực này…

Bốn là, đẩy mạnh thanh tra trách nhiệm việc giải quyết khiếu nại của các ngành các cấp, thực hiện phương châm giải quyết các tranh chấp hành chính từ cơ sở tránh vượt cấp lên Trung ương.  Trong vài năm trở lại đây, thanh tra trách nhiệm thực hiện Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo nói chung và giải quyết khiếu nại về đất đai nói riêng ngày càng được chú trọng. Đây là một định hướng hết sức đúng đắn trong chỉ đạo công tác thanh tra của Chính phủ và của Thanh tra Chính phủ, thể hiện đúng vai trò của cơ quan thanh tra trong công tác giải quyết khiếu nại hành chính. Tuy nhiên, hiệu quả của các cuộc thanh tra trách nhiệm nói chung chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu. Mặc dù, Thanh tra Chính phủ đã ban hành các quy trình quy phạm để đưa thanh tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại vào nề nếp quy củ nhưng điều khiến cho hiệu lực của hoạt động này chưa cao chính là các kiến nghị qua các cuộc thanh tra thường chung chung, đặc biệt là chưa chỉ rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính, những người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và trên thực tế chưa cá nhân nào bị xử lý trách nhiệm từ các kiến nghị của hoạt động thanh tra này. Thậm chí có những nơi việc báo cáo, làm việc với Đoàn thanh tra trách nhiệm của Thanh tra Chính phủ được “khoán trắng” cho thanh tra địa phương khiến cho nó trở thành công việc “nội bộ” của các cơ quan thanh tra.

Cần thấy rằng, cơ quan thanh tra dù giữ vai trò quan trọng đến đâu thì thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết khiếu nại vẫn luôn thuộc về những người đứng đầu cơ quan hành chính. Hiệu quả hiệu lực của công tác này phụ thuộc rất nhiều vào ý thức trách nhiệm của họ, đặc biệt là người đứng đầu cấp chính quyền cơ sở, nơi phát sinh các khiếu nại, nhất là đối với khiếu nại trong thu hồi đất mà việc giải quyết luôn phải đề cao phương châm “thấu lý, đạt tình”. Theo chúng tôi, ngoài việc đánh giá hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại qua các con số, các cuộc thanh tra trách nhiệm, dứt khoát phải có kết luận về trách nhiệm người đứng đầu và khi cần có cả những hình thức xử lý theo quy định của pháp luật. Như thế, hoạt động thanh tra trách nhiệm mới có hiệu quả thực sự.

Năm là, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, củng cố lại công tác quản lý và sử dụng đất đai từ trung ương đến địa phương; tập trung đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, đồng thời chú trọng hơn đến công tác rèn luyện phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai và giải quyết tranh chấp, khiếu nại hành chính về đất đai.

Sáu là, thường xuyên rà soát, hệ thống hóa, kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan nhằm phát hiện các quy định mâu thuẫn, không phù hợp để kịp thời sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai. Khi ban hành pháp luật về đất đai, luôn phải quan tâm tới vấn đề luật tục để đưa ra các quy định phù hợp nhằm bảo đảm tính công bằng trong sử dụng đất đai của đồng bào DTTS; tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định về tài chính đất đai, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, về trình tự, thủ tục cưỡng chế thu hồi đất.

Bảy là, tăng cường, đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật sao cho thiết thực, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm. Tăng cường đối thoại với công dân trong quá trình giải quyết khiếu nại, nhất là khi triển khai thực hiện các dự án, giải phóng mặt bằng, đền bù, giải tỏa. Tập trung rà soát, thẩm tra lại để xem xét, giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại phức tạp kéo dài… không để các khiếu nại, tố cáo tác động xấu đến tình hình an ninh, trật tự, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước tại địa phương. Thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng cho cộng đồng dân cư và hộ gia đình (cần rà soát lại các diện tích đất rừng do các tổ chức và cá nhân chiếm giữ một cách không chính đáng để giao lại cho cộng đồng dân cư (buôn, làng), các hộ gia đình thuộc các DTTS trồng rừng, chăm sóc, nuôi dưỡng rừng).

Tám là, cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra về quản lý, sử dụng đất đai, phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những yếu kém, sai phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm; nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tranh chấp, khiếu kiện của nhân dân liên quan đến đất đai; đồng thời đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trách nhiệm giải quyết tranh chấp, khiếu kiện của các cơ quan có thẩm quyền.

Chín là, chú trọng thực hiện công khai, dân chủ, công bằng bảo đảm quyền và lợi ích của người dân có đất bị thu hồi. Thực hiện tốt việc tái định cư, tạo việc làm cho người có đất bị thu hồi; xử lý hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa người sử dụng đất, Nhà nước và nhà đầu tư. Tăng cường hoạt động lập bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính và chỉnh lý các giấy chứng nhận QSDĐ để không còn những sai sót dễ dẫn đến các tranh chấp đất đai.

Mười là, nâng cao trình độ, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý đất đai ở các cấp, nhất là ở cơ sở và ổn định đội ngũ cán bộ này. Khắc phục ngay tình trạng cán bộ quản lý về đất đai yếu chuyên môn, kém đạo đức; khắc phục cơ chế phân cấp nhưng không gắn với cơ chế giám sát việc thực thi pháp luật. Củng cố hội đồng giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cấp huyện để đủ sức tham mưu cho UBND cấp huyện giải quyết dứt điểm các tranh chấp đất đai.

Kết luận

Luật Khiếu nại 2011 ra đời trên cơ sở quán triệt và cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính nhà nước và cải cách công tác tư pháp hiện nay. Luật được ra đời trên cơ sở tổng kết thực tiễn tình hình khiếu nại và giải quyết khiếu nại; kế thừa các quy định còn phù hợp của Luật khiếu nại; thiết lập được trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại đơn giản, nhanh chóng, công khai, minh bạch và có hiệu quả; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Hướng tới mục tiêu bảo đảm tính hợp hiến, thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và khả năng thi hành Luật khiếu nại.

Bằng những số liệu thực tế, những vụ việc điển hình, có thể nhận thấy được những vấn đề nổi cộm trong việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Bên cạnh đó, còn những vấn đề như mặt bằng trí thức, cơ chế xã hội cũng như vấn đề con người đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc tạo ra những vụ việc khiếu nại hoặc giải quyết khiếu nại chưa đến, chưa nghiêm, chưa sát. Cần có những chính sách, chế tài rõ ràng và chặt chẽ hơn để việc giải quyết khiếu nại trở thành một hoạt động quản lý nhà nước đúng nghĩa.

----------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Luật Khiếu nại năm 2011 và Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của

Chính phủ quy định chi tiết một số điều Luật Khiếu nại.

2. Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính

phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai.

3. Ủy ban Pháp luật Quốc hội khóa XIV (2021), Báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết

khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính Nhà nước.

4. Thanh tra Chính phủ, Báo cáo tổng kết năm 2018, 2019, 2020, 2021 và 2022

5. Xem: Hoài Nam, Gia tăng khiếu nại vượt cấp. Nguồn: http://www.sggp.org.vn/gia tang-khieu-nai-vuot-cap-360608.html.

6. Xem: Đối thoại trong giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nguồn: http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thong-tin-khac.aspx?ItemID=678.

7. Xem: Vận dụng các quy luật, yếu tố của kinh tế thị trường vào thực hiện cải cách  hành chính nhà nước - giải pháp quan trọng để xây dựng thành công chính phủ kiến tạo  ở Việt Nam hiện nay, Bùi Đức Hiển, Mục lục Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Xây dựng chính  phủ kiến tạo, liêm chính trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế” (Hà Nội, ngày 05/4/2018).

Trần Thị Thùy (Khoa Đào tạo Đại học, Học viện Tòa án)
Bạn đang đọc bài viết "Bàn về áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai" tại chuyên mục Bên khung cửa tư pháp. Mọi chi tiết xin liên hệ số hotline (0915.999.467) hoặc gửi email về địa chỉ (toasoan@phaply.vn).

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin