Nhiều chính sách đột phá cho bộ 3 trụ cột chính để phát triển đất nước trong kỉ nguyên mới

(Pháp lý). Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia xác định bộ 3 khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là 3 trụ cột chính để phát triển đất nước trong kỉ nguyên mới.

Trong đó KHCN là nền tảng, đổi mới sáng tạo là động lực, chuyển đổi số là hiện thực hóa tri thức, công cụ , giải pháp, ý tưởng thành sản phẩm , dịch vụ và phổ cập vào cuộc sống để tạo ra giá trị thực tế.

1-1735891150.jpg

Ảnh minh họa

Nghị quyết 57 – một chiến lược mang tính đột phá cho phát triển KHCN và ĐMST

Trong bối cảnh phát triển hiện nay của Việt Nam, Nghị quyết 57 không chỉ là một chiến lược mà còn là một cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc đưa khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở thành trụ cột chính của sự phát triển đất nước. Nghị quyết vì thế có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Nghị quyết 57 trước hết đáp ứng yêu cầu của thời đại chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp 4.0. Trong bối cảnh thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ nhờ các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, và Internet vạn vật, Việt Nam cần tận dụng cơ hội này để vươn lên. Đây là định hướng chiến lược, khẳng định vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo như những động lực chính cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Nghị quyết còn là cơ sở tạo động lực phát triển kinh tế tri thức dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, với mục tiêu thúc đẩy các ngành kinh tế giá trị cao, giảm phụ thuộc vào lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên.

Nghị quyết 57 cũng được kỳ vọng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời còn thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, là chìa khóa để cải thiện hiệu quả quản lý Nhà nước, nâng cao năng suất lao động và tạo ra các mô hình kinh doanh mới.

Bên cạnh đó, nghị quyết tạo nền tảng để Việt Nam phát triển các công nghệ quốc phòng tiên tiến và đảm bảo an ninh mạng trong bối cảnh các thách thức an ninh phi truyền thống gia tăng; tăng cường kết nối quốc tế và hội nhập sâu rộng

Với sự hỗ trợ của Nghị quyết số 57, Việt Nam có cơ hội xây dựng các quan hệ hợp tác khoa học, công nghệ với các quốc gia phát triển, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu và các sáng kiến đổi mới sáng tạo quốc tế.

2-1735891158.jpg

Ảnh minh họa

Với những ý nghĩa quan trọng như vậy,  NQ 57 còn đề ra 7 nhiệm vụ giải pháp mang tính đột phá, trong đó nhấn mạnh yêu cầu khẩn trương, quyết liệt hoàn thiện thể chế xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đồng thời  yêu cầu tập trung triển khai tốt các nội dung sau:

- Khẩn trương sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các quy định pháp luật về khoa học, công nghệ, đầu tư, đầu tư công, mua sắm công, ngân sách nhà nước, tài sản công, sở hữu trí tuệ, thuế… để tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản, giải phóng các nguồn lực, khuyến khích, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, phát triển nguồn nhân lực; cải cách phương thức quản lý, triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ phù hợp với từng loại hình nghiên cứu; cải cách cơ chế quản lý tài chính trong việc thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính; giao quyền tự chủ trong sử dụng kinh phí nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ.

- Có cách tiếp cận mở, vận dụng sáng tạo, cho phép thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra. Chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo. 

- Có cơ chế thí điểm để doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ mới có sự giám sát của Nhà nước; có chính sách miễn trừ trách nhiệm đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong trường hợp thử nghiệm công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới mà có thiệt hại về kinh tế do nguyên nhân khách quan. Hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo, ươm tạo công nghệ và chuyển đổi số.

- Thống nhất, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phát triển các viện nghiên cứu, trường đại học trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo. Đầu tư, nâng cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, cùng các cơ sở nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trọng điểm quốc gia. Sáp nhập, giải thể các tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động không hiệu quả. 

- Có cơ chế, chính sách hỗ trợ, phát triển các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ công lập hoạt động hiệu quả; giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức, cán bộ, tài chính, chuyên môn; được sử dụng ngân sách nhà nước thuê chuyên gia, sử dụng tài sản hữu hình và trí tuệ để liên kết, hợp tác khoa học và công nghệ với các tổ chức, doanh nghiệp. Có cơ chế cho phép và khuyến khích các tổ chức nghiên cứu, nhà khoa học thành lập và tham gia điều hành doanh nghiệp dựa trên kết quả nghiên cứu.

- Thu hút, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia. Ngân sách chi cho nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ ưu tiên thực hiện theo cơ chế quỹ, thông qua các quỹ phát triển khoa học và công nghệ. Cơ cấu lại nguồn ngân sách chi sự nghiệp khoa học và công nghệ bảo đảm tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải. 

Có cơ chế khuyến khích mua sắm công đối với các sản phẩm, hàng hoá là kết quả nghiên cứu khoa học do doanh nghiệp trong nước tạo ra. Có cơ chế đặc biệt trong nghiên cứu, tiếp cận, mua các bí mật công nghệ, học hỏi, sao chép các công nghệ tiên tiến của nước ngoài.

3-1735891158.jpg

Nghiên cứu khoa học tại Trung tâm nghiên cứu triển khai, Khu công nghệ cao TP HCM

Dành 2% GDP cho nghiên cứu phát triển, 3% ngân sách quốc gia cho đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ và chuyển đổi số

Điểm đặc biệt và đáng chú ý, Nghị quyết 57 nêu dành 2% GDP cho nghiên cứu phát triển, 3% ngân sách quốc gia cho đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ và chuyển đổi số; phấn đấu đưa Việt Nam trong năm 2030 vào top 3 Đông Nam Á, top 50 thế giới về năng lực cạnh tranh số. Đây là những định lượng rất cụ thể trong nghị quyết quan trọng này.

Đồng thời là quyết sách mang tính chiến lược cao, thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc tận dụng sức mạnh công nghệ để thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, và hội nhập sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Nếu triển khai đúng cách, các con số đầu tư này sẽ là "động cơ tăng trưởng" mới cho Việt Nam, đưa công nghệ trở thành trọng tâm phát triển trong thập kỷ tới. Trước hết, việc này có thể thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Đầu tư mạnh vào R&D và khoa học công nghệ sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ (startups) và các doanh nghiệp lớn đổi mới sản phẩm, quy trình. Điều này không chỉ thu hút vốn đầu tư trong nước mà còn từ các tập đoàn công nghệ nước ngoài.

Với 3% ngân sách dành cho chuyển đổi số, các cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp sẽ có thêm nguồn lực để hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, ứng dụng công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), blockchain, và Internet vạn vật (IoT). Điều này sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng bắt kịp các quốc gia dẫn đầu trong khu vực về kinh tế số.

Có thêm nguồn đầu tư sẽ giúp phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao bởi việc đầu tư vào nghiên cứu và đổi mới đòi hỏi đội ngũ nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy hệ thống giáo dục phải đổi mới để đáp ứng nhu cầu.

Tăng năng lực cạnh tranh quốc gia cũng là một điều chúng ta hướng tới khi đầu tư cho công nghệ. Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 vào top 3 Đông Nam Á và top 50 thế giới về năng lực cạnh tranh số. Nguồn lực đầu tư xứng đáng sẽ giúp chúng ta thu hút nhiều hơn các dự án đầu tư công nghệ cao và trở thành trung tâm sản xuất, nghiên cứu công nghệ khu vực.

Cho phép hỗ trợ tối đa 50% về chi phí đầu tư ban đầu cho những doanh nghiệp có dự án nghiên cứu và phát triển (R&D) công nghiệp bán dẫn và AI. 

Mới đây nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định 182/2024/NĐ-CP về thành lập, quản lý và sử dụng quỹ hỗ trợ đầu tư. Nghị định 182 có hiệu lực kể từ ngày 31/12/2024 và chính thức áp dụng từ năm tài chính 2024. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có quy định này để hỗ trợ cho các “đại bàng” bán dẫn và trí tuệ nhân tạo (AI) đến đầu tư tại nước ta.

Nghị định mới 182 cho phép hỗ trợ tối đa 50% về chi phí đầu tư ban đầu cho những doanh nghiệp có dự án nghiên cứu và phát triển (R&D) công nghiệp bán dẫn và AICụ thể, để được hỗ trợ về chi phí ban đầu, các doanh nghiệp phải không có nợ thuế và nợ ngân sách. Ngoài ra, dự án đầu tư trung tâm R&D phải có tác động tích cực đến hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cũng như phát triển những công nghệ mới và sản phẩm mang tính đột phá của đất nước.

4-1735891158.jpg

Ảnh minh họa

Bên cạnh đó, để nhận được mức hỗ trợ từ Chính phủ, dự án trung tâm R&D của doanh nghiệp phải thuộc Danh mục công nghệ cao được ưu tiên, có quy mô vốn đầu tư tối thiểu là 3.000 tỷ đồng ; đồng thời phải giải ngân tối thiểu 1.000 tỷ đồng trong 3 năm, kể từ ngày được cấp quyết định đầu tư.

Theo Nghị định 182, bên cạnh các tập đoàn bán dẫn và AI được hỗ trợ riêng về chi phí đầu tư ban đầu, những doanh nghiệp công nghệ khác cũng được nhiều hỗ trợ chung. Cụ thể, đối tượng được hưởng hỗ trợ chung sẽ bao gồm các doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp có dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao cũng như doanh nghiệp có dự án ứng dụng công nghệ cao và doanh nghiệp có dự án đầu tư trung tâm nghiên cứu và phát triển.

Quỹ Hỗ trợ đầu tư là quỹ quốc gia được Chính phủ thành lập và giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý. Quỹ này hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Nhiệm vụ của quỹ là tiếp nhận, quản lý, sử dụng nguồn ngân sách Nhà nước cấp và nguồn hợp pháp khác, đồng thời chi hỗ trợ doanh nghiệp.

Cơ cấu tổ chức của Quỹ Hỗ trợ đầu tư gồm: Hội đồng quản lý Quỹ và Cơ quan điều hành Quỹ. Hội đồng quản lý Quỹ Hỗ trợ đầu tư do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập có nhiệm kỳ 5 năm và được xem xét bổ nhiệm lại. Hội đồng quản lý Quỹ bao gồm: Chủ tịch Hội đồng, các Phó Chủ tịch Hội đồng và các thành viên Hội đồng. Cơ cấu, tổ chức của Hội đồng quản lý Quỹ thực hiện theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Với Nghị định 182 cho phép hỗ trợ tối đa 50% về chi phí đầu tư ban đầu cho những doanh nghiệp có dự án R&D công nghiệp bán dẫn và AI, những "đại bàng" như Nvidia có thể đón nhận tin vui khi đầu tư vào Việt Nam. Vào đầu tháng 12/2024, CEO Nvidia Jensen Huang đã sang Việt Nam để ký kết mở Trung tâm R&D và Trung tâm Dữ liệu AI. Việc mở hai trung tâm này nhằm thúc đẩy ứng dụng AI và mở rộng việc làm cho nhân lực trong nước.

Trên thực tế, trước khi có Nghị định 182, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng từng chỉ ra rằng, chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam khi đó chưa tương thích với bối cảnh mới, với sự ra đời của Thuế Tối thiểu toàn cầu. Chính sách của nước ta còn hạn chế với các nhà đầu tư nước ngoài như chỉ dựa vào các hình thức ưu đãi dựa trên thu nhập, ưu đãi tiền thuê đất, nhưng chưa có ưu đãi dựa trên chi phí.

Trong một báo cáo trong năm 2024 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về xây dựng Nghị định 182, chỉ ra rằng, thực tế có không ít tập đoàn lớn đã tiến hành khảo sát nghiên cứu việc đầu tư ở nước ta, nhưng vì chưa có quy định cụ thể nên họ lại chuyển sang quốc gia khác.

Để Việt Nam bắt kịp và tiến nhanh trong hành trình phát triển KHCN, ĐMST, chúng ta cần đầu tư mạnh vào giáo dục và đào tạo công nghệ; tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ.

Một giải pháp khác là xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo; tạo điều kiện cho các startup công nghệ phát triển, hỗ trợ về vốn, chính sách và cơ sở hạ tầng; thành lập nhiều trung tâm nghiên cứu, phát triển (R&D) công nghệ hiện đại, thu hút các chuyên gia trong và ngoài nước tham gia.

Đặc biệt, chúng ta cần đầu tư phát triển các lĩnh vực mũi nhọn mà Việt Nam có tiềm năng dẫn đầu như AI, fintech, công nghệ nông nghiệp (agritech) hoặc công nghệ giáo dục (edtech)…, và tập trung nguồn lực phát triển các lĩnh vực này để tạo ra sự khác biệt và lợi thế cạnh tranh.

Chúng ta cũng cần thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ; mở cửa hơn nữa để thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghệ cao, đồng thời yêu cầu chuyển giao công nghệ; tăng cường hợp tác quốc tế với các nước phát triển, đặc biệt trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo (AI), Blockchain, năng lượng tái tạo và công nghệ xanh.

Sớm ban hành các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới; đơn giản hóa thủ tục hành chính, khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi số cùng việc tăng cường giáo dục về tầm quan trọng của công nghệ và chuyển đổi số, từ người dân đến doanh nghiệp… cũng là những việc làm cần thiết.

Minh Anh

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin