Kiến nghị “bịt lỗ hổng” chính sách “ưu đãi” về thuế, phí, đất đai trong thu hút đầu tư

21/07/2020 13:57

(Pháp lý) - Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng những chính sách “ưu đãi” của Chính phủ dành cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang có lỗ hổng rất lớn , vô tình “ giúp” cho các doanh nghiệp này lợi dụng để “trốn, tránh” nghĩa vụ thuế đối với nhà nước.

Để đảm bảo bền vững nguồn thu ngân sách cũng như tạo môi trường bình đẳng hơn với các doanh nghiệp trong nước, các chuyên gia kiến nghị cần phải rà soát lại toàn bộ các chính sách tài chính, trong đó có các ưu đãi về thuế, phí, đất đai trong thu hút đầu tư, từ đó sửa đổi bổ sung để đảm bảo công bằng trong đầu tư.

Theo VEPR, Khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) có nguy cơ trốn thuế cao nhất

Lợi dụng chính sách ưu đãi, “né, tránh” hàng nghìn tỉ đồng tiền thuế…

Theo báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2020 được Viện Nghiên cứu Kinh tế và chính sách (VEPR) công bố ngày 17/6 vừa qua đã chỉ rõ, khu vực đầu tư FDI có nguy cơ trốn thuế cao nhất.

Theo đó, lượng vốn FDI chảy vào Việt Nam liên tục tăng trong giai đoạn 2010– 2018. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là có tới khoảng 28% dòng vốn này đến từ các và vùng lãnh thổ có mức thuế thu nhập doanh nghiệp rất thấp hoặc bằng 0 trong giai đoạn vừa qua như: Singapore, Hồng Kông, quần đảo Virgin thuộc Vương quốc Anh, quần đảo Cayman…

Do vậy, rất có thể các doanh nghiệp đa quốc gia đến từ những nước và vùng lãnh thổ kể trên có hành vi chuyển lợi nhuận từ Việt Nam sang các nơi đó nhằm giảm bớt mức thuế đáng ra phải nộp ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, theo “Báo cáo đánh giá thực trạng hoạt động của doanh nghiệp FDI và chính sách ưu đãi tài chính” của Bộ Tài chính, từ năm 2012 đến 2017, quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI duy trì tăng trưởng ở mức cao, tốc độ tăng doanh thu cao hơn tốc độ tăng tài sản (22%) và tốc độ tăng vốn đầu tư của chủ sở hữu (14%). Lợi nhuận trước thuế năm 2017 của các doanh nghiệp FDI có báo cáo đạt 344.607 tỷ đồng, tăng 19,2% so với năm 2016.

Một số ngành có sự gia tăng lợi nhuận trước thuế cả về số tuyệt đối và số tương đối, bao gồm: kinh doanh bất động sản (tăng 193,3%); khai thác, chế biến khoáng sản (tăng 146,3%); linh kiện điện tử, máy vi tính và thiết bị điện tử (tăng 40,3%)…

Trong khi đó, trong 16.718 doanh nghiệp FDI có báo cáo năm 2017, có 8.646 doanh nghiệp kê khai lỗ (chiếm 52%) với trị giá lỗ là 86.180 tỷ đồng, có 10.582 doanh nghiệp lỗ lũy kế (chiếm 63%) với trị giá lỗ lũy kế là 397.996 tỷ đồng và có 2.673 doanh nghiệp lỗ mất vốn (chiếm 16%) với trị giá vốn chủ sở hữu là âm (–85.604 tỷ đồng).

Trong 2.673 doanh nghiệp lỗ mất vốn năm 2017 có đến 1.590 doanh nghiệp lỗ mất vốn nhưng vẫn mở rộng sản xuất kinh doanh.

Như vậy, mặc dù doanh thu và lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp FDI tăng đều qua các năm, nhưng tỷ lệ doanh nghiệp báo lỗ, lỗ lũy kế và lỗ mất vốn qua các năm tăng cao và chưa có dấu hiệu giảm.

Số liệu phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp FDI giai đoạn 2012 – 2017 cho thấy, số lượng doanh nghiệp FDI báo lỗ hàng năm là từ 44% đến 52% (đặc biệt năm 2017 lên cao nhất là 52% trên số lượng doanh nghiệp có báo cáo). Điều bất hợp lý là mặc dù thua lỗ liên tục và lỗ lớn nhưng các DN này vẫn mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh.

Qua đối chiếu thuế, Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện ra một hình thức chuyển giá nữa là công ty FDI ở Việt Nam nhưng bán hàng công ty mẹ ở chính quốc giá thấp hơn giá thành; lỗ lũy kế qua nhiều năm trong khi quy mô hoạt động và doanh số của DN FDI vẫn ổn định, thậm chí tăng trưởng qua các năm; có lãi trong thời gian được miễn thuế, nhưng sau đó báo lỗ khi hết thời hạn miễn thuế; chi mua máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu từ bên liên kết với tỷ trọng lớn trong tổng mua sắm từ các nguồn…

Điển hình nhất là vụ Coca-Cola Việt Nam bị truy thu, xử phạt về thuế hơn 821 tỉ đồng vào cuối năm 2019. Đây được xem là DN FDI đứng đầu danh sách nghi án chuyển giá tại Việt Nam và Cục Thuế TP.HCM đã xếp DN này ở vị trí số 1 trong danh sách DN có nghi vấn chuyển giá. Kể từ khi vào Việt Nam từ năm 1995 đến nay, Coca-Cola báo lỗ tới hơn 20 năm liên tiếp.

Ngoài Coca-Cola Việt Nam, cuối năm 2019, qua kiểm tra, cơ quan thuế cũng truy thu Heineken Việt Nam 916 tỉ đồng tiền thuế và tiền chậm nộp thuế. Trước đó, một loạt DN FDI khác cũng bị truy thu thuế như Ngân hàng TNHH MTV Standard Chartered bị truy thu 19 tỉ đồng…

Theo VEPR, cách thức chuyển giá điển hình mà các doanh nghiệp FDI thường áp dụng là thông qua kê khai cao giá hàng hóa, nguyên vật liệu và cung ứng các dịch vụ hành chính, kỹ thuật, pháp lý trong nội bộ tập đoàn (trường hợp của Adidas Việt Nam, Coca – Cola Vietnam, Pepsi Vietnam…).

Một cách khác là chuyển giá thông qua các khoản vay từ công ty mẹ, công ty liên kết với chi phí lãi vay luôn vượt quá mức thông thường để có thể chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (trường hợp của Công ty Trà Đài Loan, Công ty trà Kinh Lộ, Keangnam Vina…).
…………………………………..

VEPR ước tính trung bình trong giai đoạn 2013 – 2017, mức thuế thất thu do hành vi trốn và tránh thuế mỗi năm dao động trong khoảng 13.300 đến 20.700 tỷ đồng, tương đương 6,4% – 9,9% số thu thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Những con số này lớn gấp khoảng 3 – 4 lần con số vi phạm phát hiện hàng năm bởi các cơ quan quản lý. Trong đó, mức thất thu thuế mỗi năm từ khu vực FDI có thể lên tới 8.000 – 9.000 tỷ đồng, còn từ khu vực ngoài nhà nước có thể lên tới 10.500 tỷ đồng.

Hàng loạt chính sách ưu đãi thu hút đầu tư FDI

Hiện tại, các chính sách ưu đãi về tài chính để thu hút vốn FDI tập trung: Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN); Ưu đãi thuế xuất - nhập khẩu; Ưu đãi về tài chính đất đai.
Đối với ưu đãi thuế TNDN: So với các loại hình doanh nghiệp khác, doanh nghiệp FDI được hưởng nhiều ưu đãi hơn. Cụ thể, doanh nghiệp FDI được hưởng ưu đãi với mức thuế suất 10% trong 15 năm, miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Thậm chí, một số doanh nghiệp FDI còn được áp dụng mức thuế suất 10% trong suốt thời gian thực hiện dự án đối với các dự án đầu tư mới trong một số lĩnh vực đặc thù, khuyến khích phát triển như công nghệ thông tin, phần mềm, năng lượng tái tạo, năng lượng từ việc tiêu hủy chất thải; lĩnh vực bảo vệ môi trường; lĩnh vực sản xuất.

Đối với ưu đãi về thuế xuất khẩu, nhập khẩu: Trước năm 2016, các chính sách ưu đãi được thực hiện theo Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2005. Việc miễn thuế nhập khẩu tiếp tục được duy trì đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để gia công hàng xuất khẩu; máy móc, thiết bị nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án khuyến khích đầu tư; miễn thuế đối với hàng kinh doanh tạm nhập tái xuất; miễn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu chuyên dùng cho nghiên cứu khoa học, giáo dục đào tạo…

Từ năm 2016 đến nay, chính sách ưu đãi được áp dụng theo Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2016. Theo đó, Luật đã bổ sung doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học - công nghệ, tổ chức khoa học - công nghệ được miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được trong thời hạn 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất; bổ sung quy định miễn thuế đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu trong nước chưa sản xuất được để sản xuất, lắp ráp trang thiết bị y tế cần được ưu tiên nghiên cứu, chế tạo.

Một số ưu đãi thuế xuất khẩu, nhập khẩu đang được áp dụng như: Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để gia công cho nước ngoài và khi xuất trả sản phẩm cho phía nước ngoài thì được miễn thuế xuất khẩu; Hàng hóa nhập khẩu để gia công được miễn thuế, hàng tạm nhập tái xuất và hàng hóa là nguyên liệu vật tư phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu có thể được kéo dài thời gian nộp thuế tới 275 ngày kể từ ngày mở tờ khai hải quan; hàng hóa tạm nhập tái xuất có thể được kéo dài thời gian nộp thuế tới 15 ngày kể từ ngày hết hạn; Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa để tạo tài sản cố định đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, lĩnh vực khuyến khích đầu tư và các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.

Đối với các ưu đãi về đất đai: Trước ngày 30/6/2014, các ưu đãi về đất đai được chia theo hai hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất và thuê đất, áp dụng giảm số tiền phải nộp ở các mức 20%, 30%, 50% hoặc miễn giảm về thời hạn 7 năm, 11 năm, 15 năm. Từ đầu tháng 7/2014 đến nay, các ưu đãi về đất đai thực hiện theo Luật Đất đai 2013 và các nghị định quy định về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.

Theo đó, Nhà nước đã thống nhất áp dụng hình thức cho thuê đối với đất sử dụng vào mục đích sản xuất - kinh doanh, có tính thời hạn và theo từng giai đoạn cụ thể. Đồng thời để thu hút đầu tư, tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính đất đai tại các khu kinh tế, khu công nghệ cao, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 quy định thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước trong khu kinh tế, khu công nghệ cao với mức ưu đãi cao hơn các dự án đầu tư thông thường.

Ngoài ra Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, hỗ trợ về đất đai đối với doanh nghiệp như: Giảm 50% tiền thuê đất trong giai đoạn 2011 - 2014; Điều chỉnh giảm tỷ lệ tính đơn giá thuê đất chung từ 1,5% (quy định tại Nghị định số 121/2010/NĐ-CP) xuống còn 1% (quy định tại Nghị định số 46/2014/NĐ-CP) và ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể tỷ lệ trong khung từ 0,5 - 3% theo từng khu vực, tuyến đường tương ứng với từng mục đích sử dụng đất để áp dụng thu tiền thuê đất tại địa phương; Áp dụng hệ số điều chỉnh giá đất trong việc xác định giá đất để tính thu tiền thuê đất.

So với các loại hình DN khác, khu vực FDI được hưởng nhiều ưu đãi hơn rất nhiều. Cụ thể, DN FDI được hưởng ưu đãi với mức thuế suất 10% trong 15 năm, miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Thậm chí, một số DN FDI còn được áp dụng mức thuế suất 10% trong suốt thời gian thực hiện dự án. Tỷ lệ thuế thu nhập DN được miễn, giảm của DN FDI chiếm 76% trên tổng thuế thu nhập DN được miễn giảm của DN cả nước; tỷ lệ thuế thu nhập DN được miễn giảm tính trên tổng thu nhập DN với khu vực FDI chiếm đến 48%, trong khi tỷ lệ này với DN nhà nước chỉ chiếm 4,6% và DN tư nhân là 14%.

Những lỗ hổng gây thất thu thuế

Theo PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng, Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế quốc dân nhận định chính sách ưu đãi thuế đối với nhà nhà đầu tư nước ngoài của chúng ta đang tồn tại một lỗ hổng rất lớn.

PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng, Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế quốc dân

Lấy dẫn chứng, PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng cho rằng khi nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài được hưởng chính sách miễn thuế ít nhất là trong 5 năm đầu và giảm 50% số thuế trong 5 năm tiếp theo chẳng hạn. Như vậy là họ được miễn, giảm thuế trong 10 năm. Sau hết 10 năm họ lại chuyển sang tỉnh khác và họ lại được giảm thêm 10 năm nữa. Sau đó hết họ lại chuyển sang tỉnh khác… Việt Nam chúng ta có 63 tỉnh, thành phố vậy mỗi một nhà đầu tư nước ngoài có thể được hưởng chính sách ưu đãi tới 630 năm , vừa được miễn vừa được giảm thuế, đó là qui định gây thất thoát rất lớn mà chúng ta cần nhanh chóng xem lại chính sách này.

Theo các chuyên gia từ VEPR, xu hướng chuyển giá trị đầu tư từ các khu vực chịu tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung hay giữa Hàn Quốc với Nhật Bản đã tác động nhiều đến sự phân cực của kinh tế thế giới. Ngày càng nhiều tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp lớn đang tránh rủi ro từ chiến tranh thương mại, cụ thể là chuyển khỏi Trung Quốc, Hàn Quốc để sang nước thứ 3 nhằm tránh tác động không mong muốn về trừng phạt thương mại.

Việt Nam đang nổi lên là nền kinh tế năng động, tham gia vào nhiều FTA lớn như CPTPP, EVFTA và sắp tới là RCEP… Các thị trường EU, Mỹ, Nhật miễn thuế hàng hóa có xuất xứ Việt Nam đang được mở rộng, đây vừa là cơ hội cho Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam và ngay cả các doanh nghiệp đã, đang và sẽ đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, VEPR cảnh báo: “Việt Nam nên thận trọng để không trở thành sân sau của Trung Quốc và Hàn Quốc để xuất khẩu sang Mỹ”.

Hiện, giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đang đạt kim ngạch rất lớn, xuất siêu mạnh sang Mỹ và nhiều mặt hàng Việt Nam đang chiếm tỷ trọng cao sang Mỹ như thủy sản, giày da, may mặc, thép, điện thoại, máy tính.

VEPR cho rằng, Chính phủ cần rà soát lại các chính sách ưu đãi về thuế khóa hay đất đai đối với FDI nhằm tạo ra môi trường bình đẳng hơn với các doanh nghiệp trong nước.

Thay lời kết

Thiết nghĩ, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư FDI song cũng cần đảm bảo môi trường bình đẳng hơn đối với các doanh nghiệp trong nước đồng thời khắc phục tình trạng vốn mỏng, chuyển giá, đầu tư “chui”, đầu tư “núp bóng”. Theo các chuyên gia, trong giai đoạn tới Chính phủ các bộ ngành cần tập trung thực hiện một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tài chính thu hút vốn FDI như:

Rà soát tổng thể các chính sách tài chính, đặc biệt là chính sách thuế thu hút vốn FDI đang được áp dụng, để có những điều chỉnh, sửa đổi bổ sung cho phù hợp, hướng đến xây dựng một hệ thống thuế tốt với chi phí tuân thủ thấp qua đó hạn chế tối đa sự “dư thừa chính sách” gây lãng phí nguồn lực NSNN.

Rà soát tổng thể danh mục ngành, nghề, địa bàn ưu đãi đầu tư gắn với việc đánh giá hiệu quả của các chính sách ưu đãi về đầu tư nói chung và chính sách tài chính nói riêng trên các phương diện quy mô vốn đầu tư, quy mô vốn thực hiện, tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đầu tư, số việc làm tạo ra, kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ nội địa hóa… trong mối tương quan với chi phí thuế .

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về chống chuyển giá và hiện tượng “vốn mỏng”, trong đó đẩy mạnh nghiên cứu và xây dựng luật về chuyển giá; quy định cụ thể tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu làm cơ sở tính chi phí hợp lý, hợp lệ khi xác định thu nhập chịu thuế; tăng cường hiệu quả hợp tác quốc tế về thuế, nhất là trong việc chia sẻ các thông tin về chính sách ưu đãi thuế và về các hiệp định thuế.

Xuân Trường

Bạn đang đọc bài viết "Kiến nghị “bịt lỗ hổng” chính sách “ưu đãi” về thuế, phí, đất đai trong thu hút đầu tư" tại chuyên mục Pháp lý và Kinh doanh. Mọi chi tiết xin liên hệ số hotline (0915.999.467) hoặc gửi email về địa chỉ (toasoan@phaply.vn).

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin