Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật”. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), pháp luật được coi là cơ sở pháp lý cho hoạt động của Nhà nước và xã hội, tuy nhiên, nếu công tác tổ chức thực hiện pháp luật không đạt được hiệu quả, có nghĩa là pháp luật không đi vào đời sống, không phát huy được vai trò quản lý xã hội. Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật trên cơ sở nghiên cứu, phản ánh các quan hệ xã hội, thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật; hệ thống các quy phạm pháp luật tác động, điều chỉnh các quan hệ xã hội vận động, phát triển phù hợp quy luật khách quan, đồng thời đạt mục tiêu quản lý của Nhà nước. Chính vì thế, tổ chức thực hiện pháp luật được coi là giai đoạn trung tâm, đóng vai trò quan trọng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật.
1. Khái quát về cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
1.1. Tổ chức thực hiện pháp luật
Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, trong đó hiến pháp và pháp luật có vị trí tối thượng, nguyên tắc thượng tôn pháp luật được đề cao trong mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý xã hội có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật hiệu quả, đồng thời, chính Nhà nước cũng phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của pháp luật.
Nhà nước pháp quyền XHCN coi trọng tính tối cao của hiến pháp, pháp luật, đó là những chuẩn mực để nhà nước, các cơ quan, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước, các tổ chức khác trong xã hội, các cá nhân thực hiện, hoạt động theo chuẩn mực đó vì một xã hội ổn định, phát triển. Có thể có một hệ thống pháp luật tốt, nhưng nếu tổ chức thực hiện pháp luật không hiệu quả, không bảo đảm tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm minh thì chưa thể có nhà nước pháp quyền. Hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các lực lượng vũ trang và mọi công dân đều phải dựa trên cơ sở pháp luật, luôn phù hợp với pháp luật. Pháp luật do Nhà nước ban hành, nhưng cũng là công cụ điều chỉnh đối với chính Nhà nước; các cơ quan, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Mọi vi phạm pháp luật của bất kỳ chủ thể nào cũng đều phải bị xử lý theo pháp luật.
Như vậy, có thể hiểu, tổ chức thực hiện pháp luật là các hoạt động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các tổ chức, cá nhân được trao quyền thực hiện nhằm bảo đảm cho các yêu cầu của pháp luật được hiện thực hóa trong đời sống xã hội.
Theo nghĩa đó, tổ chức thực hiện pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, các chủ thể có thẩm quyền tổ chức đưa pháp luật thực định vào đời sống xã hội, làm cho pháp luật sau khi ban hành có hiệu lực thực thi trên thực tế, phát huy được vai trò điều chỉnh hiệu quả các quan hệ xã hội. Tổ chức thực hiện pháp luật là hoạt động được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân được trao quyền. Tổ chức thực hiện pháp luật phải tuân theo những hình thức, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Thực tiễn đời sống có thể xuất hiện nhiều tình huống khách quan mà quá trình xây dựng pháp luật, các chủ thể chưa dự liệu hết, do vậy tổ chức thực hiện là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo, nhằm giải quyết có hiệu quả mọi tình huống phát sinh trong thực tiễn.
1.2. Cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật
Có nhiều cách tiếp cận về cơ chế, thông thường cơ chế được hiểu là “cách thức mà theo đó một quá trình được thực hiện”[1]. Trong Nhà nước pháp quyền XHCN, việc thực thi quyền lực nhà nước thể hiện ở ba phương diện lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tổ chức thực hiện pháp luật là quá trình đưa pháp luật vào đời sống, gắn với việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Vì vậy, có thể hiểu, cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật là tổng thể các yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau, bao gồm các thiết chế và các điều kiện bảo đảm để Nhà nước đưa pháp luật vào thực tiễn đời sống bằng những phương thức nhất định. Các yếu tố này hợp thành hệ thống, được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật.
Như vậy, cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật bao gồm: Trước hết là hệ thống các cơ quan nhà nước, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được pháp luật quy định, là chủ thể chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật; thứ hai là cơ sở pháp lý và các điều kiện bảo đảm cho tổ chức thực hiện pháp luật như điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trình độ nhận thức của nhân dân; thứ ba là nội dung tổ chức thực hiện pháp luật, phương thức vận hành của quá trình tổ chức thực hiện pháp luật. Các yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ, tác động hữu cơ, vận hành trên cơ sở các nguyên tắc nhất định được pháp luật quy định. Hoạt động của cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật phải bảo đảm các nội dung của tổ chức thực hiện pháp luật: Hướng dẫn thực hiện pháp luật; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; bảo đảm các điều kiện thực hiện pháp luật; kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật và tổng kết, rút kinh nghiệm thường xuyên, thông qua đó, nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật.
2. Thực trạng cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật ở Việt Nam thời gian qua
2.1. Ưu điểm của cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật
Nhận định về kết quả tổ chức thực hiện pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam thời gian qua, Đảng ta đã đánh giá: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”[2]. Nhìn chung, thời gian qua, cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật đã có nhiều tiến bộ, thể hiện ở một số khía cạnh như:
- Tổ chức của các cơ quan trong bộ máy nhà nước đã được đổi mới, sắp xếp, tinh gọn, chức năng, nhiệm vụ được phân định rõ ràng, cụ thể; cơ chế phân cấp, phân quyền giữa các cơ quan nhà nước theo chiều dọc từ trung ương tới các cấp chính quyền địa phương, giữa các cơ quan nhà nước cùng cấp theo chiều ngang được xác định và hoạt động trên cơ sở pháp luật. Hoạt động của các cơ quan nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong tổ chức thực hiện pháp luật ngày càng hiệu quả hơn.
- Công tác ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết được quan tâm, bởi đây là hoạt động quan trọng tạo cơ sở cho tổ chức thực hiện pháp luật. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ngày càng bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu triển khai đồng bộ, hiệu quả việc thi hành luật, pháp lệnh.
- Chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được nâng lên: Các cơ quan nhà nước và chủ thể phối hợp tổ chức tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ nội dung đến hình thức, cơ chế thực hiện. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật bám sát thực tiễn, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật đa dạng, phong phú nhằm phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng, địa bàn. Ý thức pháp luật của nhân dân được nâng lên, công nghệ hiện đại đã từng bước được áp dụng nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả và tiết kiệm hơn.
- Các chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật thực hiện tốt chức năng, thẩm quyền, linh hoạt, chủ động, sáng tạo trong tổ chức thực hiện nhiều biện pháp khác nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp. Thể chế về công tác tổ chức thi hành pháp luật từng bước được hoàn thiện. Ý thức tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức, nhân dân được nâng lên; thủ tục hành chính được cải cách theo hướng phục vụ người dân và doanh nghiệp. Các vi phạm pháp luật được xử lý nghiêm minh, tuân thủ các quy định của pháp luật, đúng thẩm quyền, xử lý đúng người, đúng hành vi vi phạm.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác pháp luật được nâng cao, công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức thực thi pháp luật được chú ý, đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực chuyên môn, kỹ năng tổ chức thực hiện pháp luật và đạo đức công vụ.
- Nguồn lực vật chất đầu tư cho tổ chức thực hiện pháp luật được Nhà nước quan tâm, coi đây là nhân tố quan trọng bảo đảm thực thi pháp luật.
2.2. Hạn chế của cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật trong thời gian qua còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định: “…Quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu”[3]. Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta đã nhận diện: “Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước”[4]. Cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật còn bộc lộ một số hạn chế nhất định như:
- Việc đổi mới tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước còn bộc lộ một số bất cập. Các cơ quan thực hiện điều chỉnh cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo Hiến pháp, pháp luật và thực hiện tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế theo các nghị quyết của Đảng còn chậm hoặc còn sắp xếp cơ học ở một số nơi; một số quy định về chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa thực sự phù hợp và còn thiếu tính dài hạn[5].
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở một số nơi còn mang tính hình thức, chưa hiệu quả: Nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến chưa phù hợp với đối tượng thực sự cần phổ biến, chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật chưa cao.
- Việc triển khai tổ chức thực hiện pháp luật đôi khi chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao, nhận thức và thực thi pháp luật chưa thống nhất, cơ chế thực thi và phối kết hợp giữa các cơ quan nhà nước còn bất cập, chưa hiệu quả. Việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của một số cơ quan còn hạn chế, chất lượng chưa cao[6]. Hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật chưa được giám sát, phản biện một cách hiệu quả, chưa xây dựng được ý thức toàn dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Công tác kiểm tra, đánh giá việc tổ chức thực hiện pháp luật chưa được thực hiện thường xuyên, do vậy chưa tổng kết được thực tiễn để từ đó tham mưu, hoạch định chính sách pháp luật một cách chất lượng, hiệu quả điều chỉnh quan hệ xã hội của pháp luật chưa cao, pháp luật chưa thực sự đi vào cuộc sống.
Những hạn chế trong cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật trên xuất phát từ một số nguyên nhân sau: (i) Hệ thống các văn bản pháp luật còn bất cập, vướng mắc nên tổ chức thực hiện khó khăn, chưa kịp thời; (ii) Cơ chế phân cấp, phân quyền và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước chưa thực sự phù hợp và hiệu quả; (iii) Một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng, chưa có kỹ năng xử lý tình huống trong quá trình tổ chức thực thi pháp luật; (iv) Chưa thực sự coi tổ chức thực hiện pháp luật là giai đoạn quan trọng của cơ chế điều chỉnh pháp luật nên chưa dành nguồn lực vật chất thỏa đáng cho công tác tổ chức thực hiện; (v) Trình độ nhận thức của một bộ phận nhân dân còn hạn chế nên chưa tích cực tham gia thực hiện pháp luật.
3. Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật trong giai đoạn hiện nay
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW: “Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật” đòi hỏi chúng ta phải đặc biệt chú ý đến cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật. Hoàn thiện cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới cần thực hiện một số giải pháp sau:
3.1. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật
Nguyên tắc hiến định phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đòi hỏi cần tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tổ chức của Quốc hội cần được đổi mới, cơ chế thực thi nhiệm vụ và trách nhiệm của các Ủy ban của Quốc hội cần được xác định rành mạch. Nâng cao chất lượng bầu cử, bảo đảm lựa chọn được những đại biểu dân cử thực sự chất lượng, xứng đáng là đại diện của nhân dân thay mặt nhân dân thực thi quyền lực nhà nước. Nâng cao chất lượng lập pháp, quyết định và giám sát tối cao của Quốc hội.
Tinh gọn bộ máy, kiện toàn tổ chức của Chính phủ, tiếp tục cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính pháp quyền, phục vụ nhân dân, dân chủ, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, minh bạch. Xây dựng, hoàn thiện bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước, bảo đảm tinh gọn, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Tổ chức hợp lý mô hình chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, kiện toàn các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân. Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động, tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tư pháp.
3.2. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật
Hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, quy định chặt chẽ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và mọi công dân trong việc thi hành pháp luật và theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật. Thường xuyên rà soát, khắc phục những “lỗ hổng” trong hệ thống pháp luật, tránh tình trạng “lách luật” trong thực tiễn quản lý xã hội. Nâng cao chất lượng hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật, khắc phục sự chồng chéo giữa các văn bản quản lý, đặc biệt các lĩnh vực liên ngành.
3.3. Đổi mới về nội dung và phương thức tổ chức thực hiện pháp luật
Trên cơ sở hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành, cần triển khai các hoạt động hướng dẫn cụ thể để đưa pháp luật vào thực tiễn quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, phát triển hệ thống thông tin pháp luật, trợ giúp pháp lý, tăng cường khả năng tiếp cận của người dân đối với hệ thống pháp luật.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhằm nâng cao ý thức pháp luật, trình độ, kiến thức pháp lý cho mọi tầng lớp nhân dân, thu hút người dân tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật, thông qua đó, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, khuyến khích người dân tự tìm hiểu pháp luật, tiếp cận pháp luật một cách chủ động chứ không chỉ thụ động tiếp nhận từ Nhà nước. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm đưa pháp luật đến với nhân dân nhanh hơn, kịp thời hơn.
Nâng cao hiệu quả công tác theo dõi, đánh giá tình hình thực hiện pháp luật, trên cơ sở đánh giá thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật, khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật, xử lý những tình huống khách quan, rút ra những bài học kinh nghiệm, từ đó tham mưu trong hoạch định chính sách pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
3.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác tổ chức thực hiện pháp luật
Bảo đảm xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức có chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ năng, bản lĩnh chính trị vững vàng và phẩm chất đạo đức tốt. Cần xây dựng và thực hiện chính sách thỏa đáng về lương, chế độ đãi ngộ, thu hút đối với những người làm công tác tổ chức thực hiện pháp luật. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, xây dựng và thực hiện chế độ khen thưởng, kỷ luật đúng pháp luật. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt. Quy định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; có cơ chế khuyến khích, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
3.5. Đầu tư nguồn lực vật chất, kinh phí thỏa đáng cho công tác tổ chức thực hiện pháp luật
Quá trình tổ chức thực hiện pháp luật cũng như để bảo đảm cho cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật vận hành hiệu quả, cần một nguồn lực vật chất tương xứng. Để pháp luật đi vào cuộc sống đòi hỏi trải qua một quá trình tổ chức thực hiện với nhiều khâu, nhiều bước quan trọng, cùng sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Không những thế, còn nhiều nhân tố khách quan tác động đến quá trình tổ chức thực hiện pháp luật. Do vậy, cần đầu tư nguồn lực vật chất, trang thiết bị cần thiết cho các yếu tố của cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật cũng như các khâu tổ chức thực hiện.
Nhà nước quản lý bằng pháp luật hiệu quả, Hiến pháp và pháp luật được thượng tôn phụ thuộc vào hiệu quả của cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật. Những thành tựu đạt được thời gian qua cùng với những nhân tố mới, điều kiện trong nước và quốc tế đang có nhiều thuận lợi tác động tích cực cho công cuộc xây dựng và quản lý xã hội ở Việt Nam. Thực hiện đồng bộ một số giải pháp trên sẽ góp phần hoàn thiện cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật, góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ở Việt Nam.
TS. Vũ Thị Hoài Phương
Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị khu vực I
[1]. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, 1997, tr. 207.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 72.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 17, 172, 179.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, Tập 1, tr. 89 - 90.
[5]. Như Báo cáo số 38/BC-TA ngày 16/7/2019 của Tòa án nhân dân tối cao có nêu hạn chế trong quy định về thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán.
[6]. Báo cáo số 38/BC-TA ngày 16/7/2019 của Tòa án nhân dân tối cao; Báo cáo số 131/BC-VKSTC ngày 22/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 389), tháng 9/2023)