Xây dựng cơ chế 'tịch thu tài sản không qua thủ tục kết tội'

Để nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản, trong đó có các vụ án tham nhũng, kinh tế, lãnh đạo Chính phủ đang giao Bộ Tư pháp nghiên cứu “cơ chế thu hồi tài sản không qua thủ tục kết tội” để nâng cao tỉ lệ thu hồi tài sản tham nhũng còn thấp hiện nay.

Ông Đỗ Đức Hiển, Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự, hành chính, Bộ Tư pháp. Ảnh: VGP/ Lê Sơn.

Nhiều thách thức trong tịch thu tài sản liên quan đến tham nhũng

Trao đổi với Cổng TTĐT Chính phủ, ông Đỗ Đức Hiển, Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự, hành chính (Bộ Tư pháp) cho biết: Trong những năm qua, công tác phòng, chống tham nhũng luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm và xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, gắn liền với các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Nhờ đó, thời gian qua, công tác này đã có chuyển biến mạnh mẽ và đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy vậy, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, trong đó có vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng, thất thoát vẫn còn gặp nhiều khó khăn thách thức, tỉ lệ thu hồi tài sản chưa cao. Điều này đã được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chỉ ra khi Kết luận tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020 là “tỉ lệ thu hồi tài sản tham nhũng, thất thoát còn thấp”.

Theo ông Hiển, một trong những thách thức chính hiện nay trong công tác tịch thu tài sản liên quan đến tội phạm nói chung, tài sản tham nhũng nói riêng là việc xác minh, thu thập chứng cứ và chứng minh mối liên hệ giữa tài sản và hành vi phạm tội. Đây là công việc đặc biệt khó khăn không chỉ đối với các cơ quan tư pháp của nước ta mà còn của hầu hết các quốc gia. Trong khi đó, những biện pháp tịch thu tài sản theo thủ tục tố tụng hình sự truyền thống (nghĩa là phải chờ đến khi có bản án, quyết định của tòa án) sẽ khó tránh khỏi việc thất thoát tiền, tài sản do người phạm tội đã nhanh chóng che giấu, tẩu tán hoặc tẩy rửa, khiến cho công tác thu hồi tài sản ngày càng khó khăn hơn.

Ông Hiển cũng cho biết, thực hiện các cam kết quốc tế, trong đó có Khuyến nghị số 4 của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) yêu cầu các quốc gia thành viên xem xét áp dụng các biện pháp cho phép các tài sản hoặc công cụ có liên quan tới tội phạm bị tịch thu mà không cần phải có bản án hình sự hoặc yêu cầu người phạm tội phải chứng minh nguồn gốc hợp pháp của tài sản; Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng khuyến nghị các quốc gia “xem xét tiến hành các biện pháp cần thiết cho phép tịch thu tài sản mà chưa có bản án hình sự trong trường hợp không thể truy tố người vi phạm vì họ chết, lẩn trốn, vắng mặt, hoặc trong trường hợp thích hợp khác ” (khoản 1 Điều 54).

Do đó, ngày 30 tháng 4 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 474/QĐ-TTg về Kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2019-2020, trong đó giao Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện nhiệm vụ “Nghiên cứu đề xuất xây dựng quy định biện pháp tịch thu tài sản không thông qua thủ tục kết tội, buộc đối tượng tình nghi phải chứng minh nguồn gốc hợp pháp của tài sản và đề xuất sửa đổi quy định có liên quan trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Phòng, chống tham nhũng”.

Cơ chế hiệu quả được nhiều quốc gia áp dụng

Triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch, đồng thời thành lập Tổ công tác liên ngành với sự tham gia của Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an, Thanh tra Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để thực hiện nghiên cứu này. Ngày 25/02/2021, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Tờ trình và Báo cáo nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ.

Theo đó, báo cáo nghiên cứu của Bộ Tư pháp tập trung đánh giá về cơ chế thu hồi tài sản không qua thủ tục kết tội của một số quốc gia; pháp luật hiện hành của Việt Nam về tịch thu tài sản, nghĩa vụ chứng minh và các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế trong hoạt động tố tụng, thi hành án cũng như thực tiễn công tác thu hồi tài sản và trên cơ sở đánh giá những thuận lợi, khó khăn, thách thức đề xuất bước đi tiếp theo.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, tịch thu tài sản không qua thủ tục kết tội là một cơ chế hiệu quả được nhiều quốc gia áp dụng với nhiều cách thức, biện pháp khác nhau và điều kiện, trình tự, thủ tục áp dụng rõ ràng, cụ thể, chẳng hạn như tại Australia, từ năm 2002 nước này đã ban hành đạo luật Tài sản phạm tội trong đó quy định cơ chế tịch thu dân sự và tịch thu tài sản không giải thích được nguồn gốc (không cần chứng minh tội phạm nguồn). Thái Lan đã ban hành đạo luật Chống rửa tiền vào năm 1999 quy định biện pháp tịch thu tài sản dân sự thông qua cơ chế giám sát các giao dịch và đạo luật cơ bản về chống tham nhũng năm 1999 quy định cơ chế tịch thu tài sản đối với công chức giàu có bất thường. Hoa Kỳ quy định về tịch thu dân sự tại Bộ luật Hình sự; bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự, Luật Hải quan (năm 1990) của nước này còn quy định tịch thu hành chính đối với tiền không xác minh được nguồn gốc hợp pháp;…

Các cơ chế thu hồi tài sản nêu trên cũng có thể xem là giải pháp quan trọng nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực của công tác thu hồi tiền, tài sản, phù hợp với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về phòng, chống tham nhũng.

Cần đồng bộ với các cơ chế về kiểm soát tài sản, thu nhập, giao dịch

Tuy nhiên, ông Đỗ Đức Hiển cũng cho biết những khó khăn khi thực hiện cơ chế này. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, tịch thu tài sản không qua thủ tục kết tội là biện pháp phức tạp, nhạy cảm vì có thể ảnh hưởng đến một số quyền con người, quyền công dân; liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan, tổ chức; đòi hỏi phải có sự đồng bộ với các cơ chế, thiết chế khác như kiểm soát tài sản, thu nhập, kiểm soát giao dịch, hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt, phòng, chống rửa tiền; cơ chế này cũng liên quan đến nhiều đạo luật khác nhau và đặt ra yêu cầu rà soát, đánh giá, đề xuất sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật hiện hành, trong đó có các đạo luật như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thanh tra, Luật Phòng chống rửa tiền, các luật về tổ chức bộ máy các cơ quan tố tụng…

“Bộ Tư pháp cũng nhận thấy rằng, việc nghiên cứu, đề xuất quy định cơ chế thu hồi tài sản không qua thủ tục kết tội cần phải hết sức thận trọng, kỹ lưỡng cả về lý luận và thực tiễn cũng như đòi hỏi phải đánh giá toàn diện về pháp luật, tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, nguồn lực thực hiện để chuẩn bị các phương án, điều kiện cần thiết”, ông Đỗ Đức Hiển nhấn mạnh.

Ngày 31/03/2021 vừa qua, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình cũng đã chỉ đạo giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan tiếp tục nghiên cứu, đánh giá sâu sắc toàn diện về khả năng xây dựng cơ chế tịch thu tài sản không qua thủ tục kết tội và đề xuất sửa đổi, bổ sung pháp luật có liên quan, với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thu hồi tài sản, đặc biệt tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng, rửa tiền, đồng thời bảo đảm phù hợp lộ trình đánh giá đa phương về phòng, chống rửa tiền trong giai đoạn tiếp theo của Nhóm châu Á-Thái Bình Dương về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố đối với Việt Nam.

Trong đó tập trung vào các cơ chế như: Tịch thu tài sản qua thủ tục tố tụng dân sự trong quá trình xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức mà phát hiện có nguồn tiền, tài sản kê khai không trung thực và không giải trình được nguồn gốc; tịch thu tài sản qua thủ tục tố tụng dân sự trong quá trình kiểm soát các giao dịch đáng ngờ mà phát hiện giao dịch của cá nhân thuộc danh sách đen hoặc có căn cứ liên quan đến tội phạm; tịch thu tài sản qua thủ tục dân sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tiếp tục thực hiện nghiên cứu, báo cáo Thủ tướng Chính phủ về cơ chế này.

Theo Chinhphu.vn

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin