Các khách mời tham dự tọa đàm (từ trái sang): GS.TS. Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội, Phó Hiệu trưởng ĐH Kinh tế Quốc dân; Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi; Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương; TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. (Ảnh: VGP/Quang Thương)
Để có thêm góc nhìn cũng như giúp cơ quan quản lý đề ra các giải pháp trúng nhằm xây dựng hệ sinh thái trái phiếu lành mạnh, ngày 28/5 vừa qua, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm trực tuyến với chủ đề "Ổn định kinh tế vĩ mô và Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp". Tại buổi tọa đàm có rất nhiều ý kiến góp ý tâm huyết.
Cần đặc biệt coi trọng vấn đề xây dựng hệ sinh thái trái phiếu lành mạnh
Trả lời trực tuyến từ Singapore, PGS.TS. Vũ Minh Khương, Giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, nhận định trái phiếu là kênh huy động nguồn vốn đặc biệt quan trọng, không chỉ cho doanh nghiệp mà cả Chính phủ. Vì thế, ông Khương nêu quan điểm: Việt Nam cần chú ý hơn nữa về vấn đề tạo nền móng cho tương lai.
Nhìn những báo cáo quốc tế của Việt Nam vừa rồi phát hành thấy lãi suất quá cao trong bối cảnh đồng tiền Việt Nam ổn định so với USD thì tôi thấy các doanh nghiệp Việt Nam có thể gặp khó. Ví dụ vừa rồi lãi suất 13% so với thế giới là rất cao, như vậy là rất khó. Nếu dùng đòn bẩy quá cao, tức là hầu hết dựa vào trái phiếu, để đầu tư xây dựng thì lại càng khó nữa vì lãi suất cao sẽ dễ làm lỗ. Do đó cần có khảo sát, giúp đỡ họ thật kỹ.
Ông Khương phân tích, nhìn những quốc gia đã tạo ra những phát triển thần kỳ thì trái phiếu có vai trò rất quan trọng, đến 100% của GDP, trong đó khoảng 50% của doanh nghiệp và 50% của Chính phủ. Chẳng hạn như Hàn Quốc, có đến 18 địa phương phát hành trái phiếu xây dựng đường sắt, tàu điện ngầm, các công trình được xây dựng, phát triển mạnh. Khi một đồng được đầu tư vào những thứ chuẩn xác, đúng hướng sẽ tạo ra nhiều lời lãi, giúp tăng trưởng rất nhanh, rất thần kỳ. Do đó: "Tôi nghĩ chúng ta cần đặc biệt coi trọng vấn đề xây dựng hệ sinh thái trái phiếu lành mạnh”, ông Khương nhấn mạnh.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy trái phiếu phát hành 3 loại. Một là phải mua bảo hiểm. Khi mua bảo hiểm thì dân rất yên tâm mua, vì bảo hiểm đã kiểm tra rất kỹ trình độ trái phiếu ra sao. Dạng thứ hai là phát hành trái phiếu nhưng có bảo lãnh. Tôi mua miếng đất này, xây dựng công trình tàu điện ngầm kia ra sao, hoàn toàn có bảo lãnh, bảo đảm bằng chính tài sản của mình. Đây cũng là công thức tốt, nghĩa là ta phải tạo ra nền móng rất khoa học. Loại trái phiếu thứ ba là loại hoàn toàn không có bảo lãnh, không bảo hiểm thì phải ít nhất có hai công ty đánh giá kinh nghiệm, năng lực, thẩm định để giúp người dân yên tâm.
TS. Vũ Minh Khương (ảnh chụp qua màn hình): Các nhà đầu tư nước ngoài vẫn háo hức muốn vào Việt Nam, kỳ vọng Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị mới. (Ảnh: VGP/Quang Thương)
Đồng thời, TS. Vũ Minh Khương nhấn mạnh 3 tuyến phòng vệ trong vấn đề hỗ trợ các doanh nghiệp để tránh vấn đề hình sự. Tuyến phòng vệ thứ nhất là các lãnh đạo doanh nghiệp khi chuẩn bị cần hiểu thật kỹ về quản trị doanh nghiệp. Tuyến phòng vệ thứ hai là bảo đảm vấn đề pháp lý, phản ứng cứu hộ. Tuyến phòng vệ thứ ba là cần kiểm toán hằng năm đề đánh giá, bởi tình hình kinh tế biến đổi rất nhanh, do đó cần cập nhật các ý kiến kiến nghị thường xuyên, liên tục.
"Nói chung, xây dựng một nền tảng cho hệ thống tài chính lành mạnh cho tương lai của Việt Nam là vấn đề rất cấp bách. Tôi tin là Chính phủ nhiệm kỳ này có thể làm được vấn đề đó và coi thách thức hiện giờ chúng ta gặp phải là một quyết tâm chiến lược để Việt Nam để tạo ra một nền móng thật tốt trong thời gian tới".
Cùng quan điểm, GS.TS. Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội, Phó Hiệu trưởng ĐH Kinh tế Quốc dân, cho rằng, trái phiếu doanh nghiệp là một thị trường vốn rất quan trọng cho doanh nghiệp. Trong năm 2021 và quý đầu năm 2022, chúng ta chứng kiến thị trường trái phiếu doanh nghiệp rất sôi động. Tuy nhiên, sang đầu năm 2022, thị trường rơi vào khó khăn, huy động của phát hành trái phiếu mới giảm đi. Thậm chí nhiều doanh nghiệp năng lực khá tốt nhưng vì tâm lý của nhà đầu tư mà phát hành giảm sút.
Khó khăn thứ hai là nhiều khoản trái phiếu chưa đến hạn đáo hạn mà nhà dầu tư đã muốn rút. Rồi có nhiều doanh nghiệp năng lực yếu cho nên đến thời kỳ là phải đáo hạn trái phiếu, bây giờ không phát hành được các lô mới lại không có nguồn để đáo hạn. Đó là yếu tố tạo ra rủi ro và tạo ra sức ép lớn cho nhiều doanh nghiệp…
GS.TS. Hoàng Văn Cường; Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi; Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương tại Tọa đàm. (Ảnh: VGP/Quang Thương)
GS.TS. Hoàng Văn Cường phân tích thêm: thị trường trái phiếu không phải là một thị trường mua bán hàng hóa thông thường. Trái phiếu là một thị trường tài chính, đòi hỏi những người tham gia vào đấy phải có năng lực và phải có một môi trường pháp lý để tạo ra một hệ sinh thái như TS. Vũ Minh Khương nói.
Việc đầu tiên là chúng ta phải có một khuôn khổ pháp lý để quản lý, hỗ trợ, giám sát. Thứ hai là bản thân những người tham gia thị trường, kể cả những người phát hành trái phiếu như là doanh nghiệp, cũng phải thấy được việc phải tuân thủ ra sao, có thể gặp phải những rủi ro như thế nào? Khách hàng tham gia và mua trên thị trường này cũng phải có được năng lực đó. Tôi cho rằng có lẽ nhiều doanh nghiệp thời gian vừa qua phát hành trái phiếu chưa thực sự hiểu. Cảnh báo của chúng ta, kiểm soát của chúng ta đúng là chưa kịp thời.
Vừa qua có cuộc khủng hoảng trái phiếu, Chính phủ đã có hành động khá kịp thời. Chúng ta ra Nghị định 65 để tăng cường chuẩn hóa phát hành trái phiếu, nhưng sau đó chúng ta nhìn thấy chuẩn hóa ngay lúc này cứng quá, chúng ta lại ra Nghị định 08 để thích nghi dần dần. Đấy là xử lý rất nhanh nhạy để chúng ta thấy rằng không để tình trạng phát hành không có căn cứ, nhưng cũng không thắt quá chặt.
Tôi nghĩ rằng chúng ta vẫn cần có các biện pháp phản ứng phù hợp hơn, quan trọng nhất là những trái chủ cảm thấy có niềm tin và sẽ không có người nào mất trắng tay. Chẳng hạn chúng ta gia hạn thời gian thanh toán, chuyển đổi từ trái phiếu sang tài sản. Tôi nghĩ cái đấy không phải là mất tiền mà có khi chúng ta lại có thêm cơ hội.
Đặc biệt, chúng ta thấy phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là những doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực bất động sản. Mong muốn của các nhà đầu tư cá nhân Việt Nam có một đặc điểm rất khác so với nhiều nhà đầu tư cá nhân thế giới. Nhiều nhà đầu tư cá nhân thế giới trên thị trường chứng khoán không hiểu họ đầu tư là đầu tư vào quỹ, đầu tư gián tiếp, nhưng Việt Nam lại rất thích đầu tư trực tiếp, tự mình mua, tự mình cảm nhận được sinh lợi ra sao. Nếu chúng ta chuyển sang các lĩnh vực trái phiếu có khả năng chuyển đổi này, tôi nghĩ đó là một kênh khá tốt để huy động nguồn vốn của từng cá nhân trở thành nguồn vốn của nhà đầu tư.
Lấy lại niềm tin thị trường: Cần đồng bộ nhiều giải pháp
Tham dự tọa đàm, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi đồng tình với nhiều ý kiến của TS. Vũ Minh Khương, TS. Hoàng Văn Cường. "Tôi đồng tình là vẫn phải tiếp tục làm và làm tốt hơn, thậm chí phải đào tạo cho thị trường một bản lĩnh vững vàng. Tất cả các chủ thể khi tham gia thị trường là đón nhận lợi ích và chia sẻ rủi ro, khi đó chúng ta có một thị trường trái phiếu thực sự phát triển ổn định, bền vững. Bên cạnh các kênh dẫn vốn khác, nó sẽ giúp nền kinh tế đồng bộ và phát triển một cách hiệu quả", ông Chi nhấn mạnh.
Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Quốc Phương và Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi - Ảnh: VGP/Quang Thương
Tiếp tục định hướng và xây dựng thể chế, có những hành động để thị trường trái phiếu hoạt động trở lại ổn định và phát triển bền vững, tôi cho rằng chúng ta còn rất nhiều việc phải làm. Tôi hoàn toàn đồng tình với TS. Vũ Minh Khương về những tiêu chuẩn của thị trường.
Nghị định 65 quy định rất rõ về các tiêu chuẩn. Thứ nhất, nhà đầu tư tham gia vào thị trường phải ký cam kết là đã hiểu tất cả những vấn đề liên quan đến trái phiếu mà họ tham gia đầu tư và chấp nhận rủi ro khi quyết định đầu tư. Bên cạnh đó, Nghị định 65 cũng quy định định kỳ 6 tháng, doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải có báo cáo được kiểm toán bởi một cơ quan kiểm toán độc lập, xác nhận tiền thu được từ trái phiếu sử dụng vào mục đích đã công bố với nhà đầu tư. Đây là quy định phù hợp, rõ ràng, đảm bảo sự minh bạch của doanh nghiệp phát hành với cơ quan quản lý Nhà nước và các nhà đầu tư. Ngoài ra, các tiêu chuẩn của trái phiếu, các hình thức có thể phát hành như bằng bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh từ bên thứ ba, bằng tài sản đảm bảo đã được quy định rõ từ Nghị định 153.
Về xác lập hệ số tín nhiệm, trong Nghị định 65 nêu rõ doanh nghiệp phát hành phải có đánh giá hệ số tín nhiệm từ một bên cung cấp dịch vụ này. Tuy nhiên, đúng như GS.TS. Hoàng Văn Cường nói, đánh giá về tình hình cụ thể cung cấp dịch này của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Vì vậy, Nghị định 08 đã tạm thời cho ngưng quy định này trước mắt là đến 31/12/2023. Có thể nói, phản ứng chính sách và quyết đáp của Chính phủ rất linh hoạt, trên cơ sở căn cứ vào tính khoa học, nguyên tắc, quy chuẩn và yêu cầu thực tiễn hiện nay, để đưa ra các quy định nêu trên.
Từ khi Nghị định 08 được ban hành ngày 5/3/2023, chúng ta đã có 15 doanh nghiệp phát hành được khối lượng là 26,4 nghìn tỷ trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường. Trong khi giai đoạn trước đó, cuối năm 2022 và 2 tháng đầu năm 2023, hầu như không có doanh nghiệp nào phát hành được trái phiếu ra thị trường. Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy tác động chính sách giúp các doanh nghiệp và các nhà đầu tư có niềm tin và bắt đầu quay trở lại thị trường.
Ở một khía cạnh khác, sau khi Nghị định 08 ra đời, nhiều doanh nghiệp đã đàm phán thành công với các nhà đầu tư trong xử lý vướng mắc về quá trình thanh khoản, dòng tiền khi trái phiếu đến hạn. Theo báo cáo của Sở Giao dịch chứng khoán, có 16 doanh nghiệp đàm phán thành công để giải quyết khối lượng trái phiếu gần 8 nghìn tỷ đồng (7,9 nghìn tỷ đồng). Nhờ có quy định mới của Chính phủ, các doanh nghiệp cùng với nhà đầu tư đã thực hiện được các phần việc như đàm phán, gia hạn, chuyển đổi thành tài sản,… thành công.
Một điểm nữa tôi muốn nhắc đến là Nghị định 08 cho phép ngưng thi hành điều kiện mới về các nhà đầu tư chuyên nghiệp và xếp hạng trái phiếu hết năm 2023. Quy định này được đánh giá là giúp cho doanh nghiệp, nhà đầu tư đáp ứng các điều kiện, quy chuẩn của Nghị định 65. Nếu không, chúng ta áp dụng ngay thì gây sốc, giật cục, có khả năng không những khiến thị trường không tốt lên mà còn xấu đi.
Sau khi có Nghị định 65 và Nghị định 98, nhận thức, ý thức của các chủ thể tham gia thị trường tốt lên rất nhiều, hiểu được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình khi tham gia thị trường hơn. Các tổ chức phát hành, cung cấp dịch vụ chấp hành nghiêm túc chế độ cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư.
Như vậy, với những quy định mới của Chính phủ, chúng ta đã đạt kết quả bước đầu rất tích cực. Trong thời gian tới, thị trường sẽ có những điều chỉnh và bắt đầu đi lên một cách bền vững.
Để tiếp tục gỡ khó, tăng cường niềm tin của thị trường quan trọng này, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục triển khai các biện pháp quan trọng sau:
Thứ nhất là ổn định kinh tế vĩ mô, giữ được lãi suất, tỉ giá, lạm phát...từ đó điều hành linh hoạt, hiệu quả chính sách tài khóa, tiền tệ, giải quyết các khó khăn. Nếu giữ được như hiện nay và tiếp tục quá trình đó thì đó chính là điểm tựa để các doanh nghiệp tiếp tục hoạt động tốt dần lên và hiệu quả hơn, từ đó quay trở lại phát triển.
Thứ hai phải có những quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến thị trường trái phiếu. Nó phải được ứng xử một cách linh hoạt và hiệu quả, đáp ứng kịp thời diễn biến thực tiễn. Thời gian vừa qua, Chính phủ ra 2 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP và số 08/2023/NĐ-CP. Những quy định pháp lý mới nhất như vậy đã kịp thời giúp các doanh nghiệp phát hành, rồi nhà đầu tư có điều kiện và công cụ pháp lý, có thời gian để giải quyết những khó khăn trước mắt về dòng tiền, thanh khoản, tài sản đảm bảo, và giải quyết những vấn đề khác liên quan…trên nguyên tắc xuyên suốt là lợi ích hài hòa và rủi ro chia sẻ.
Thứ ba, khi tình hình thị trường bất động sản gặp khó khăn, Chính phủ đã có nhiều giải pháp khác nhau để hỗ trợ và giúp cho các doanh nghiệp phát hành. Chính phủ đã có chính sách giãn nợ, chuyển nhóm nợ của các doanh nghiệp, rồi giảm lãi suất, giãn thuế, giảm thuế…Những giải pháp này sẽ tác động đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp, hỗ trợ thị trường tiếp tục ổn định trở lại và phát triển bền vững.
Thứ tư, các cơ quan chức năng của Nhà nước thời gian vừa qua cũng tăng cường giám sát, kiểm tra, thậm chí thanh tra để đảm bảo thị trường này minh bạch và tuân thủ các quy định của pháp luật. Nhưng bên cạnh đó, thông điệp của Chính phủ rất rõ ràng là không hình sự hóa các quan hệ kinh tế. Doanh nghiệp phải tôn trọng các thỏa thuận của doanh nghiệp phát hành với nhà đầu tư theo quy định của pháp luật và phải thực thi trách nhiệm của mình. Nhà nước đảm bảo việc đó được thực hiện.
4 bài học kinh nghiệm từ phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp các nước châu Á
Theo ThS. Võ Lê Phương - Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính (Bộ Tài chính), từ việc nghiên cứu các chính sách phát triển thị trường TPDN ở một số nước ở châu Á có thể rút ra 4 bài học kinh nghiệm nhằm giúp Việt Nam phát triển thị trường TPDN công khai, minh bạch, bền vững.
Thứ nhất, thực hiện đồng bộ các giải pháp từ khuôn khổ pháp lý đến tổ chức thị trường, phát triển cơ sở nhà đầu tư (NĐT), phát triển sản phẩm hàng hóa, phát triển cơ sở hạ tầng của thị trường và các định chế tài chính trung gian.
Thứ hai, phát triển hệ thống NĐT tổ chức để tạo cầu đầu tư bền vững trên thị trường: NĐT trên thị trường TPDN hầu hết là NĐT có tổ chức như: Công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, ngân hàng thương mại và công ty chứng khoán. Đây là những tổ chức có kiến thức chuyên sâu và kinh nghiệm về đầu tư.
Thứ ba, hình thành Trung tâm thông tin tập trung về phát hành TPDN: Hình thức giao dịch TPDN phổ biến trên thế giới là giao dịch thỏa thuận. Điều này vừa giúp cho doanh nghiệp phát hành hiệu quả, vừa giúp cho các NĐT tư có đầy đủ thông tin để tham gia thị trường TPDN.
Thứ tư, nâng cao năng lực tài chính và chất lượng hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian như: Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, tổ chức xếp hạng tín nhiệm. Trong đó, hình thành và thiết lập các tổ chức xếp hạng tín nhiệm là một trong những tiền đề quan trọng đối với phát triển thị trường TPDN minh bạch, bền vững.