Những nội dung cơ bản của đạo luật được ví như “vương miện” của nền dân chủ - Luật Trưng cầu ý dân (Kì 1)

(Pháp lý) - Tại Lễ tổng kết Dự án Luật Trưng cầu dân ý do Hội Luật gia VN tổ chức mới đây, Đ/c Uông Chu Lưu – Phó Chủ tịch Quốc hội đã nhận định đánh giá: Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, Quốc hội ta thể chế được quy định của Hiến pháp thể hiện quyền của nhân dân trong các vấn đề quan trọng của đất nước thông qua việc ban hành Luật Trưng cầu ý dân ( TCYD). Là đạo luật được chuẩn bị trong thời gian rất dài, 2 khóa của Quốc hội. Và cũng là đạo luật thể hiện vai trò, tầm vóc và đóng góp quan trọng của Hội Luật gia VN trong công tác xây dựng pháp luật. Luật TCYD đã thể hiện sự trọng dân, tin dân, dựa vào dân và để nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước … Đây là đạo luật được ví như “vương miện” của nền dân chủ của chúng ta.

[caption id="attachment_138877" align="aligncenter" width="410"]Đồng chí Nguyễn Văn Quyền, Chủ tịch Hội Luật gia VN (đứng) phát biểu tại buổi làm việc với Thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc hội về dự án Luật Trưng cầu ý dân. Đồng chí Nguyễn Văn Quyền, Chủ tịch Hội Luật gia VN (đứng) phát biểu tại buổi làm việc với Thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc hội về dự án Luật Trưng cầu ý dân.[/caption]

Trước đó, ngày 25/11/2015, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật Trưng cầu ý dân. Luật có hiệu lực thực hiện từ ngày 01/7/2016. Từ số báo này, Ban biên tập Tạp chí Pháp lý trân trọng giới thiệu tới bạn đọc những nội dung cơ bản của đạo luật đặc biệt quan trọng này.

1. Phạm vi điều chỉnh 

Luật này quy định về việc trưng cầu ý dân; nguyên tắc trưng cầu ý dân; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong trưng cầu ý dân; trình tự, thủ tục quyết định việc trưng cầu ý dân và tổ chức trưng cầu ý dân; kết quả và hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân (Điều 1).

2. Trưng cầu ý dân là việc Nhà nước tổ chức để cử tri cả nước trực tiếp biểu quyết bằng hình thức bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước theo quy định của Luật này. Trưng cầu ý dân và lấy ý kiến Nhân dân tuy cùng là hình thức để Nhân dân phát huy quyền dân chủ trực tiếp tham gia, thể hiện ý kiến với Nhà nước nhưng giữa trưng cầu ý dân và lấy ý kiến Nhân dân có sự khác nhau về nội dung, hình thức và giá trị pháp lý. Về nội dung, vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân là những vấn đề quan trọng của đất nước, có phạm vi ảnh hưởng toàn quốc và phải do Quốc hội quyết định; còn vấn đề lấy ý kiến Nhân dân có thể là các vấn đề ở mức độ, phạm vi khác nhau, thuộc nhiều lĩnh vực do nhiều cơ quan quyết định, có thể là vấn đề ở tầm quốc gia nhưng cũng có thể chỉ là các vấn đề liên quan đến một hoặc một số địa phương cụ thể. Về hình thức, trong trưng cầu ý dân, người dân thể hiện ý chí của mình thông qua việc bỏ phiếu kín, còn trong việc lấy ý kiến Nhân dân thì các hình thức để người dân thể hiện ý chí thường linh hoạt hơn rất nhiều (có thể là bỏ phiếu, lấy ý kiến vào văn bản hoặc phát biểu trực tiếp tại các hội nghị, cuộc họp lấy ý kiến…). Về giá trị pháp lý, trưng cầu ý dân có giá trị quyết định, có thể thi hành ngay đối với vấn đề được đưa ra trưng cầu; còn kết quả lấy ý kiến Nhân dân là cơ sở để cơ quan, tổ chức lấy ý kiến xem xét, quyết định. Đối tượng của việc lấy ý kiến Nhân dân có thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình,… trong khi đó, đối tượng trưng cầu ý dân chỉ gồm các cử tri. Việc ban hành Luật trưng cầu ý dân không hạn chế việc Nhà nước tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với những vấn đề đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật.

3. Nguyên tắc trưng cầu ý dân

Các nguyên tắc trong luật quy định đảm bảo xuyên suốt các khâu, các bước trong trưng cầu ý dân và được quy định tại Điều 4, bao gồm:

1. Bảo đảm để Nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội.

2. Thực hiện nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín khi trưng cầu ý dân.

3. Việc trưng cầu ý dân phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định.

4. Người có quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân.

Luật quy định cử tri trong trưng cầu ý dân cơ bản thống nhất như cử tri trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp. Cụ thể là “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên tính đến ngày trưng cầu ý dân có quyền bỏ phiếu để biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 25 của Luật này” (Điều 5).

[caption id="attachment_138878" align="aligncenter" width="410"]Đồng chí Uông Chu Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội phát biểu tại Hội nghị tổng kết Luật Trưng cầu ý dân Đồng chí Uông Chu Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội phát biểu tại Hội nghị tổng kết Luật Trưng cầu ý dân[/caption]

5. Các vấn đề trưng cầu ý dân 

Để xác định cụ thể những vấn đề nào phải đưa ra trưng cầu ý dân phụ thuộc vào yêu cầu thực tế, vào điều kiện và hoàn cảnh tại từng thời điểm, đồng thời, phù hợp với Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội và các văn bản pháp luật có liên quan, Luật trưng cầu ý dân quy định Quốc hội xem xét, quyết định trưng cầu ý dân về các vấn đề sau đây (Điều 6):

1. Toàn văn Hiến pháp hoặc một số nội dung quan trọng của Hiến pháp;

2. Vấn đề đặc biệt quan trọng về chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của quốc gia;

3. Vấn đề đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước;

4. Vấn đề đặc biệt quan trọng khác của đất nước.

6. Phạm vi tổ chức trưng cầu ý dân

Luật trưng cầu ý dân quy định: “Trưng cầu ý dân được thực hiện trong phạm vi cả nước”. Điều này phù hợp với quy định của Hiến pháp về thẩm quyền quyết định trưng cầu ý dân của Quốc hội. Đồng thời, những vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân phải là những vấn đề có ý nghĩa ở tầm quốc gia đưa ra để toàn dân quyết định (Điều 7).

7. Ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân

Để cử tri có thể tham gia đông đảo vào việc bỏ phiếu trưng cầu ý dân cũng như điều kiện thời gian hợp lý cho việc tổ chức trưng cầu ý dân, Luật quy định: “Ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân là ngày chủ nhật, do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định và được công bố chậm nhất là 60 ngày trước ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân” (Điều 8).

8. Các trường hợp không tổ chức trưng cầu ý dân

Để tránh trường hợp tổ chức trưng cầu ý dân vào những hoàn cảnh không phù hợp, không đảm bảo việc tổ chức trưng cầu ý dân được thành công, Điều 9 của Luật quy định:

1. Không tổ chức lại việc trưng cầu ý dân về nội dung đã được trưng cầu ý dân trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày kết quả trưng cầu ý dân được công bố.

2. Không tổ chức trưng cầu ý dân trong thời gian ban bố tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bãi bỏ tình trạng chiến tranh, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước.

9. Giám sát việc tổ chức trưng cầu ý dân

Trưng cầu ý dân là sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, thể hiện quyền dân chủ trực tiếp của công dân trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Để cuộc trưng cầu ý dân được tiến hành dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch theo đúng quy định của pháp luật thì việc quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và công dân trong giám sát việc trưng cầu ý dân là cần thiết. Do đó, Luật trưng cầu ý dân quy định (Điều 10):

1. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, Thường trực Hội đồng Nhân dân, Ban của Hội đồng Nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng Nhân dân, đại biểu Hội đồng Nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc tổ chức trưng cầu ý dân.

2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và Nhân dân giám sát việc tổ chức trưng cầu ý dân theo quy định của pháp luật.

10. Về hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân Hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân được quy định tại Điều 11 của Luật, cụ thể là:

1. Kết quả trưng cầu ý dân có giá trị quyết định đối với vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân và có hiệu lực kể từ ngày công bố.

2. Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng kết quả trưng cầu ý dân. 3. Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức và bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh kết quả trưng cầu ý dân.

11. Các hành vi bị nghiêm cấm

Để kết quả cuộc trưng cầu ý dân phản ánh đúng thực chất ý chí, nguyện vọng của cử tri, đồng thời để phòng ngừa vi phạm có thể xảy ra, Luật quy định các hành vi bị nghiêm cấm bao gồm (Điều 13):

1. Tuyên truyền, đưa thông tin sai lệch về nội dung, ý nghĩa của việc trưng cầu ý dân.

2. Dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép, cản trở làm cho cử tri không thực hiện hoặc thực hiện việc bỏ phiếu trưng cầu ý dân trái với mong muốn của mình.

3. Giả mạo giấy tờ, gian lận hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả trưng cầu ý dân.

4. Lợi dụng việc trưng cầu ý dân để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân.

5. Vi phạm quy định về bỏ phiếu, kiểm phiếu trưng cầu ý dân, quy định khác của Luật này.

12. Cơ quan, người có quyền đề nghị trưng cầu ý dân

Trưng cầu ý dân là hình thức quan trọng để thực hiện quyền dân chủ trực tiếp cao nhất của người dân đã được quy định trong Hiến pháp, đồng thời để thống nhất với Luật tổ chức Quốc hội và phù hợp với vị trí, chức năng, vai trò của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị nước ta, Luật trưng cầu ý dân (Điều 14) quy định:

- Chủ thể có quyền đề nghị trưng cầu ý dân bao gồm: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất là một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định việc trưng cầu ý dân.

- Về thủ tục đề nghị trưng cầu ý dân, Luật quy định: trường hợp có từ một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội trở lên kiến nghị Quốc hội quyết định việc trưng cầu ý dân về cùng một vấn đề thì Ủy ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm tổng hợp các kiến nghị của đại biểu Quốc hội, chuẩn bị hồ sơ theo quy định tại khoản 3 Điều này trình Quốc hội xem xét, quyết định.

Việc kiến nghị và tổng hợp kiến nghị của đại biểu Quốc hội được thực hiện theo quy định tại Điều 33 của Luật tổ chức Quốc hội.

- Hồ sơ đề nghị trưng cầu ý dân gồm:

a) Tờ trình đề nghị trưng cầu ý dân, trong đó nêu rõ sự cần thiết của việc tổ chức trưng cầu ý dân, nội dung cần trưng cầu ý dân, dự kiến thời điểm tổ chức trưng cầu ý dân, các phương án, giải pháp để thực hiện kết quả trưng cầu ý dân;

b) Dự thảo nghị quyết của Quốc hội về trưng cầu ý dân;

c) Tài liệu khác có liên quan (nếu có).

Đón đọc tiếp kỳ 2 nội dung bài viết đăng trên TCPL phát hành cuối tháng 4/2016.

PV

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin