Kiến nghị cơ chế công nhận tín chỉ các-bon như một loại tài sản bảo đảm trong hệ thống tài chính – ngân hàng

(Pháp lý). Trong lĩnh vực tài chính, tín chỉ các-bon đang dần khẳng định vai trò khi được đưa vào sử dụng trong các hình thức giao dịch tài chính như tín dụng xanh. Tuy nhiên, tại Việt Nam, khung pháp lý hiện hành vẫn chưa có cơ chế để tín chỉ các-bon được sử dụng làm tài sản bảo đảm, gây khó khăn cho việc khai thác giá trị kinh tế của loại tài sản này. Bài viết phân tích cơ sở phát triển tín chỉ các-bon thành tài sản bảo đảm, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, từ đó đề xuất kiến nghị cơ chế công nhận và sử dụng tín chỉ các-bon như một loại tài sản bảo đảm trong hệ thống tài chính – ngân hàng.
11-1751870608.png

Các tổ chức tín dụng vẫn đang e dè nhận tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm

1. Tín chỉ các-bon và tài sản bảo đảm

* Tín chỉ các-bon

Tín chỉ các-bon là chứng nhận có thể giao dịch thương mại và thể hiện quyền phát thải một tấn khí các-bon dioxide (CO2) hoặc một tấn khí các-bon dioxide (CO2) tương đương (khoản 35 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2020).

Mặc dù chưa có quy định cụ thể về việc công nhận tín chỉ các-bon là tài sản ở Việt Nam, nhưng trên cơ sở quy định của pháp luật về tín chỉ các-bon thì có thể thấy rằng: Tín chỉ các-bon là một loại tài sản đặc biệt, tương tự như chứng khoán, quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu trí tuệ. Do đó, tín chỉ các-bon có đặc điểm là phi vật lý và giá trị biến động. Loại tài sản này có thể quản lý, lưu trữ, trao đổi, mua bán tương tự như bất kỳ loại hàng hóa nào khác.

* Tài sản bảo đảm

Tài sản bảo đảm là đối tượng mà bên bảo đảm sử dụng để thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm, thông qua các hình thức như cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và các biện pháp bảo đảm khác theo quy định pháp luật. Nếu bên bảo đảm vi phạm nghĩa vụ, thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản đảm bảo để bù đắp nghĩa vụ bị vi phạm.

Tài sản bảo đảm theo qui định tại Điều 295 Bộ luật dân sự 2015 có các đặc điểm sau:

Thứ nhất, tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm: Theo đó, khi đưa tài sản trở thành đối tượng của biện pháp bảo đảm thì phải đảm bảo tài sản đó thuộc sở hữu của bên bảo đảm nhằm hạn chế rủi ro cho bên nhận bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu.

Thứ hai, tài sản bảo đảm phải xác định được: Tài sản bảo đảm bao gồm tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Vì vậy, tài sản được đưa vào các giao dịch bảo đảm có thể được mô tả chung mà không cần cụ thể hóa tài sản đó như các tài sản hình thành trong tương lai, nhưng tài sản này phải xác định được, tức là có cơ chế xử lý chính xác tài sản đó khi phát sinh vấn đề xử lý tài sản bảo đảm.

Thứ ba, giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm: Việc xác định giá trị của tài sản bảo đảm có ý nghĩa trong việc xác định phạm vi nghĩa vụ được thực hiện và nhằm bảo đảm cho việc xử lý tài sản bảo đảm khi có sự vi phạm nghĩa vụ xảy ra. Tài sản tham gia các giao dịch bảo đảm thường có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo hiểm, tuy nhiên cũng có thể nhỏ hơn hoặc bằng nếu các bên thỏa thuận. Trường hợp nếu giá trị tài sản bảo đảm nhỏ hơn hoặc bằng giá trị nghĩa vụ bảo đảm thì khi phát sinh trách nhiệm xử lý tài sản thì bên nhận bảo đảm có thể chịu thiệt hại nếu bên bảo đảm không còn tài sản khác để thanh toán.

2. Cơ sở phát triển tín chỉ các-bon thành tài sản bảo đảm

Tín chỉ các-bon đã được pháp luật công nhận tại Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn. Song vấn đề tín chỉ các-bon là tài sản bảo đảm lại chưa được quy định rõ trong luật. Bộ luật Dân sự 2015 và Nghị định 21/2021/NĐ-CP quy định thi hành Bộ luật dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ quy định: Tài sản bảo đảm bao gồm tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai trừ tài sản đang bị cấm chuyển nhượng, cấm chuyển giao. Có thể thấy rằng, pháp luật đã mở rộng quy định về tài sản bảo đảm. Trong khi đó, hoạt động giao dịch tín chỉ các-bon tại Việt Nam hiện nay đang ngày càng phổ biến và không bị cấm giao dịch, chuyển nhượng. Do đó, có thể hiểu rằng việc nhận bảo đảm bằng tín chỉ các-bon là hoàn toàn khả thi.

2-1751870615.jpg

Việt Nam hoàn toàn có khả năng phát triển một thị trường tín chỉ carbon năng động trong trung và dài hạn (Ảnh minh họa)

Để phát triển tín chỉ các-bon thành một loại tài sản bảo đảm thì tín chỉ các-bon cần đáp ứng được điều kiện về đặc điểm của tài sản bảo đảm được quy định trong Bộ luật dân sự 2015. Trong đó gồm 03 điều kiện chính là:

(i) Xác định được chủ sở hữu, quyền sở hữu đối với tín chỉ các-bon: Tín chỉ các-bon là chứng nhận của cơ quan/tổ chức có thẩm quyền về đo lường lượng khí nhà kính được cắt giảm, hấp thụ hoặc không phát thải. Do đó, nó không tồn tại dưới dạng vật chất mà là một dạng quyền tài sản. Vì vậy, cần phải đăng ký, định danh cho tín chỉ các-bon để xác định chủ thể có quyền sở hữu đối với tín chỉ các-bon đó. Chủ thể sở hữu tín chỉ các-bon có thể là cá nhân, tổ chức hoặc nhóm cá nhân, tổ chức liên kết, liên danh. Trong đó, chủ sở hữu tín chỉ các-bon không nhất thiết phải là chủ thể sở hữu tài sản tạo ra quyền phát thải CO2. Ví dụ như: Một doanh nghiệp thuê đất của một nhóm hộ nông dân tại khu vực miền núi để triển khai dự án trồng rừng nhằm hấp thụ khí CO₂. Trong quá trình thực hiện, doanh nghiệp đầu tư vào việc trồng, chăm sóc và quản lý rừng theo các tiêu chuẩn quốc tế như VCS (Verified Carbon Standard). Sau một thời gian, dự án được một tổ chức độc lập xác minh là đã giảm được 10.000 tấn CO₂ tương đương. Từ đó, doanh nghiệp được cấp 10.000 tín chỉ các-bon. Như vậy, chủ sở hữu tín chỉ các-bon chính là doanh nghiệp, còn quyền sử dụng đất vẫn thuộc quyền của nhóm hộ nông dân vì doanh nghiệp chỉ là bên thuê đất.

(ii) Tín chỉ các-bon phải xác định được: Việc xác định tín chỉ các-bon là rất quan trọng nhằm tăng tính minh bạch, đảm bảo giá trị của tín chỉ các-bon và đảm bảo sự an toàn cho các giao dịch bảo đảm. Tín chỉ các-bon hiện nay ở Việt Nam đa số là các tín chỉ do các tổ chức quốc tế cấp, trên các giấy xác nhận có thể hiện một số thông tin cơ bản như tên chủ sở hữu, diện tích, khối lượng giảm phát thải, thời hạn của tín chỉ... Tuy nhiên các tín chỉ này chưa được đồng nhất về quy cách ghi nhận thông tin, cũng không được cập nhật trên hệ thống điện tử chung do vậy có thể phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực như lừa đảo, làm giả, tín chỉ không đạt chuẩn... Do đó cần phải thu thập, đánh giá, công khai, kiểm tra thường xuyên các thông tin thiết yếu của tín chỉ các-bon như địa chỉ, diện tích, khối lượng phát thải, thời gian, chủ sở hữu... so với hiện trạng thực tế để đảm bảo tính xác định được của tín chỉ các-bon và cũng nhằm bảo đảm cho việc xử lý chính xác tín chỉ các-bon khi phát sinh việc xử lý tài sản bảo đảm.

(iii) Phải xác định được giá trị của tài sản các-bon: Một tài sản muốn trở thành tài sản bảo đảm cần có giá trị kinh tế cụ thể và có thể định giá tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm. Tín chỉ các-bon có giá trị thương mại và đã được giao dịch tại nhiều thị trường quốc tế. Hiện Việt Nam mới đang xây dựng sàn giao dịch tín chỉ các-bon nên chưa hình thành một hệ thống định giá minh bạch và ổn định. Trong khi đó, giá trị của tín chỉ các-bon có tính biến động và bị phụ thuộc vào tiêu chuẩn chứng nhận, loại dự án, bên mua – bên bán, thị trường giao dịch, ngoài ra còn có các yếu tố khách quan như thiên tai, thời tiết, rủi ro bên ngoài... Do đó công tác thẩm định, định giá đóng góp vai trò quan trọng trong việc đảm bảo giá trị kinh tế và giá trị pháp lý cho tín chỉ các-bon.

(iv) Bên cạnh các yếu tố chính thì yếu tố về khả năng xử lý tài sản bảo đảm cũng ảnh hưởng đến việc xây dựng tín chỉ các-bon thành tài sản bảo đảm: Tài sản bảo đảm phải có khả năng xử lý để thực hiện thay cho thế cho phần nghĩa vụ bị vi phạm nếu có. Hiện nay có rất nhiều phương pháp để xử lý tài sản bảo đảm, tuy nhiên chuyển nhượng, bán đấu giá là một trong những phương thức xử lý thường được sử dụng khi xử lý tài sản bảo đảm. Trên thị trường, tín chỉ các-bon vẫn được các chủ sở hữu tự do thực hiện việc trao đổi, chuyển nhượng với nhau. Do đó khả năng có thể chuyển nhượng được là điều kiện bắt buộc để xử lý tài sản bảo đảm là tín chỉ các-bon.

3. Những thách thức

Mặc dù việc xây dựng tài sản bảo đảm là tín chỉ các-bon ở Việt Nam hiện nay là hoàn toàn có cơ sở, tuy nhiên việc triển khai trên thực tế lại là một bài toán vô cùng khó khăn, còn gặp nhiều thách thức:

Thứ nhất, chủ thể nhận bảo đảm tài sản bằng tín chỉ các-bon sẽ bị hạn chế hơn các loại tài sản bảo đảm khác bởi đây là một loại tài sản mới xuất hiện ở Việt Nam nên cần thời gian để khẳng định giá trị và được công nhận rộng rãi. Hiện nay, trên thế giới mới chỉ có một số ngân hàng và tổ chức tín dụng tiên phong trong việc chấp nhận tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm. Việt Nam cũng không đứng ngoài xu thế chung của thế giới và thị trường; vì vậy, việc công nhận tín chỉ các-bon là tài sản bảo đảm cũng sẽ được các ngân hàng và tổ chức tín dụng trong nước tiên phong xem xét và áp dụng.

Thứ hai, pháp luật chưa cụ thể hóa tín chỉ các-bon là tài sản hay quyền tài sản. Hiện nay Luật Bảo vệ môi trường 2020 mới chỉ công nhận tín chỉ các-bon là đối tượng có thể được tham gia giao dịch trên thị trường. Mặc dù khi đối chiếu tín chỉ các-bon với Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 về tài sản thì có thể thấy tín chỉ các-bon khi được phân loại thì thuộc nhóm quyền tài sản, tuy nhiên pháp luật vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể hóa phân loại tài sản đối với tín chỉ các-bon.

Thứ ba, khoảng trống pháp lý về quyền sở hữu đối với tín chỉ các-bon. Việc đăng ký, định danh đối với tín chỉ các-bon còn khá mơ hồ, đa số các tín chỉ các-bon hiện nay ở Việt Nam đều do các tổ chức quốc tế cấp mà chưa có sự tham gia quản lý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do đó gây ra khó khăn, tăng rủi ro có thể phát sinh cho bên nhận bảo đảm trong việc xác minh hoặc xác minh không đầy đủ chủ thể có quyền sở hữu tín chỉ các-bon được tham gia vào giao dịch bảo đảm.

Thứ tư, hiện nay chưa có cơ chế đăng ký, định giá, hay xử lý tín chỉ các-bon trong trường hợp bảo đảm nghĩa vụ tài chính. Việc thiếu công cụ định giá khách quan và thống nhất sẽ tác động đến giá trị của tín chỉ các-bon, tạo ra thách thức cho người nhận bảo đảm, đặc biệt là tổ chức tín dụng. Thêm vào đó, việc thiếu quy định về trình tự, thủ tục xử lý tín chỉ các-bon nên hiện nay không có cơ chế pháp lý để thực hiện việc xử lý khi cần. Ngoài ra, tín chỉ các-bon còn gắn với điều kiện sử dụng, hoặc bị ràng buộc bởi cơ chế quốc tế từ các tổ chức cấp tín khiến việc xử lý càng thêm phức tạp. Do vậy, nếu không có hệ thống đăng ký và quy trình xử lý tài sản rõ ràng thì tài sản bảo đảm là tín chỉ các-bon sẽ gặp rủi ro pháp lý cao.

Thứ năm, thách thức trong thực tiễn thực hiện giao dịch bảo đảm tại các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp có nhu cầu nhận bảo đảm tài sản bằng tín chỉ các-bon. Bởi, tín chỉ các-bon là một loại tài sản mới ở Việt Nam, nhiều tổ chức và ngân hàng chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc nhận bảo đảm nghĩa vụ đối với loại tài sản này. Vì vậy nếu không có sự chuẩn bị sẵn sàng và kĩ lưỡng thì việc chấp nhận tín chỉ các-bon như tài sản bảo đảm sẽ là thách thức không nhỏ đối với các tổ chức tín dụng vì chúng tiềm ẩn các rủi ro có thể phát sinh bất kỳ lúc nào. Hơn nữa, việc xác định phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm bằng tín chỉ các-bon cũng là một trong những vấn đề được các ngân hàng và tổ chức tín dụng quan tâm hiện nay. Do tín chỉ các-bon có tính biến động và không có giá trị ổn định trong thời gian dài vì vậy khi chấp nhận tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm thì cần đánh giá, cân nhắc về các yếu tố như: mục đích của việc bảo đảm tài sản là gì (ví dụ như chỉ được vay vốn để phát triển dự án xanh, mở rộng quy mô của tín chỉ các-bon); về thời hạn cho vay sẽ phải ngắn hơn thời hạn trong tín chỉ; về mức cấp tín dụng sẽ cần phải dựa vào các yếu tố khác ngoài giá trị tài sản bảo đảm như về nguồn gốc của tín chỉ các-bon hay quy mô và khả năng chi trả của bên bảo đảm tài sản.

4. Tính khả thi trong việc công nhận tín chỉ các-bon là tài sản bảo đảm

4.1. Kinh nghiệm từ thế giới

Hiện nay, việc sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm đang trở thành xu hướng phổ biến toàn cầu, với hệ thống pháp lý ngày càng được hoàn thiện tại nhiều quốc gia như Liên minh châu Âu, Thái Lan, New Zealand và Australia... Một số ngân hàng lớn đã triển khai hoạt động cấp tín dụng dựa trên loại tài sản đặc thù này. Bên cạnh đó, nhiều nước, đặc biệt tại khu vực châu Phi và châu Á, cũng đang tích cực xây dựng và điều chỉnh khung pháp lý nhằm sớm đưa tín chỉ các-bon vào hệ thống tài chính trong thời gian tới.

Nhiều quốc gia ở Liên minh châu Âu (EU) như Pháp đã công nhận EU Allowances (EUA) - một loại hạn ngạch các-bon cho phép các công ty được Hệ thống giao dịch phát thải của EU bảo vệ thải ra một lượng CO₂ nhất định - là tài sản tài chính, cho phép sử dụng trong các giao dịch bảo đảm ngân hàng. Các tổ chức tài chính đã chấp nhận EUA làm tài sản đảm bảo cho vay vốn hoặc giao dịch hợp đồng mua lại (repo), đặc biệt khi giá trị EUA tăng mạnh từ khoảng 5–7 Euro vào năm 2017 lên hơn 90 Euro vào năm 2022.

Tại Thái Lan, Chương trình Thailand Voluntary Emission Reduction (T-VER - Chương trình giảm phát thải tự nguyện của Thái Lan) kết hợp tín chỉ các-bon với tài sản nông nghiệp theo Luật An ninh kinh doanh, cho phép nông dân sử dụng tín chỉ các-bon từ dự án trồng rừng cùng với quyền sở hữu cây trồng để vay vốn ngân hàng, đặc biệt là các khoản vay được sử dụng cho các dự án đầu tư có khả năng chống chịu với khí hậu, vì chúng cung cấp một phương thức có thể đo lường được để đánh giá và quản lý rủi ro liên quan đến khí hậu. Ngoài ra, tín chỉ các-bon có thể áp dụng vào các dịch vụ tài chính của ngân hàng dưới dạng một yếu tố trong các dự án tài chính thân thiện với môi trường. Và cũng có thể được thế chấp như một khoản tăng cường tín dụng trong các giao dịch này, giúp đảm bảo rằng dự án có thể đáp ứng các yêu cầu tài chính của mình.

Còn với Australia, tín chỉ các-bon của Australia là Australian Carbon Credit Units (ACCU), được tạo ra và phát hành theo Đạo luật Tín dụng Các-bon (Sáng kiến nông nghiệp các-bon) năm 2021 (Đạo luật CFI). ACCU là tài sản cá nhân, cụ thể là công cụ đầu tư, theo mục đích của Đạo luật Chứng khoán Tài sản Cá nhân năm 2009 (PPSA), do đó nó có thể được sử dụng làm tài sản thế chấp cho các thỏa thuận tài chính chung của công ty hoặc trong các khoản tài chính riêng nhắm vào các dự án bù trừ đủ điều kiện. Như vậy, ACCU có thể sử dụng làm tài sản bảo đảm khi được đăng ký rõ ràng và xác minh kỹ lưỡng. Các ngân hàng tại đây thường kiểm tra trạng thái pháp lý của ACCU, bao gồm quyền sở hữu và tình trạng chưa bị sử dụng trước khi chấp nhận chúng làm tài sản bảo đảm.

Tại Brazil, dự án khởi nghiệp Mombak đã nhận được khoản tài trợ 100 triệu real từ Doanh nghiệp Santander Brasil và Ngân hàng Phát triển Quốc gia Brazil (BNDES) nhằm khôi phục rừng Amazon và tạo ra tín chỉ các-bon để cung cấp cho các tập đoàn như Microsoft và Google. Đây cũng là dự án đầu tiên được hưởng lợi từ Quỹ Khí hậu Mới của Brazil, với quy mô tài chính lên tới 10 tỷ real. Bên cạnh đó, Ngân hàng Banco do Brasil đã hợp tác với Ngân hàng Thế giới để triển khai một sáng kiến tài chính khí hậu trị giá 500 triệu USD, với mục tiêu cung cấp các khoản vay liên kết với mục tiêu giảm phát thải và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường các-bon.

4.2. Kiến nghị cho Việt Nam

Việt Nam đang từng bước tiếp cận việc sử dụng tín chỉ các-bon như một loại tài sản bảo đảm. Minh chứng cụ thể là thỏa thuận đã ký kết giữa Việt Nam và Ngân hàng Thế giới, theo đó tổ chức này cam kết mua tín chỉ các-bon với mức giá 5 USD/tín chỉ. Riêng trong năm 2023, Việt Nam đã tạo ra 10,5 triệu tín chỉ, tương ứng với nguồn thu khoảng 51,5 triệu USD. Những con số này cho thấy tiềm năng tài chính rõ rệt của tín chỉ các-bon, đặc biệt trong việc huy động nguồn lực cho các dự án hạ tầng xanh. Tuy nhiên, với tính chất còn mới mẻ, việc đưa chỉ các-bon trở thành một tài sản bảo đảm tại Việt Nam vẫn cần được hoàn thiện. Dưới đây là một số kiến nghị nhằm thúc đẩy tiến trình này:

Thứ nhất, cần xác lập tư cách pháp lý của tín chỉ các-bon: Để loại bỏ rào cản căn bản cho việc sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm thì cần có quy định pháp lý cụ thể thừa nhận tín chỉ các-bon là tài sản hoặc quyền tài sản, để có thể xác định chủ thể có quyền sở hữu và có quyền định đoạt nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc sử dụng làm tài sản bảo đảm. Đồng thời, bổ sung quy định về tín chỉ các-bon trong danh mục tài sản bảo đảm trong văn bản quy phạm pháp luật như Nghị định 21/2021/NĐ-CP về tài sản bảo đảm.

3-1751870614.png

Thứ hai, thiết lập cơ chế đăng ký quyền sở hữu, định giá và giao dịch minh bạch: Tín chỉ các-bon cần có hệ thống pháp lý bảo đảm quyền sở hữu rõ ràng để có tư cách tham gia các giao dịch bảo đảm và đảm bảo giá trị được định giá một cách khách quan. Trong đó việc xây dựng phương thức thế chấp, ký quỹ tín chỉ các-bon và hướng dẫn cụ thể quy trình lưu giữ, định giá, xử lý các tài sản này là vô cùng quan trọng. Thông qua đó nhằm làm giảm rủi ro pháp lý khi sử dụng tín chỉ làm tài sản bảo đảm và tăng tính minh bạch, tạo niềm tin cho nhà đầu tư và các tổ chức tín dụng. Đồng thời, cần có các tổ chức định giá độc lập, được cấp phép chuyên môn sâu về tài chính xanh và có thể xây dựng theo cơ chế định giá thị trường dựa trên cung – cầu và các tiêu chuẩn của quốc tế (như tổ chức: Verra, Gold Standard). Hơn nữa, cần tạo ra sàn giao dịch tín chỉ các-bon uy tín của quốc gia, kết nối với thị trường khu vực và quốc tế.

Thứ ba, cần có phương án thử nghiệm việc sử dụng tín chỉ các-bon làm tài sản bảo đảm trong một số lĩnh vực như năng lượng tái tạo, ngân hàng xanh... nhằm kiểm chứng tính khả thi và để nắm bắt, tháo gỡ các vướng mắc trong thực tiễn từ đó rút ra kinh nghiệm khi áp dụng tại Việt Nam. Qua đó tăng khả năng tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp xanh và thúc đẩy triển khai các dự án giảm phát thải khí nhà kính.

Thứ tư, nâng cao trình độ chuyên môn từ cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đến các tổ chức nhận bảo đảm nghĩa vụ bằng tín chỉ các-bon như ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác. Trong đó Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các cơ quan chuyên môn phải là những đơn vị, chuyên gia đi đầu trong lĩnh vực này bởi không chỉ liên quan đến việc quản lý như định giá, cấp giấy phép, chứng nhận mà sắp tới còn là việc điều chỉnh, vận hành thị trường (sàn giao dịch) tín chỉ các-bon có tính chất mới mẻ và phức tạp. Bên cạnh đó, các đơn vị có liên quan như Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng cũng phải xây dựng cơ chế phối hợp với các cơ quan nhà nước, đồng thời tự nâng cao nội lực của chính mình trong việc thẩm định, kiểm tra, quản lý, xử lý tài sản bảo đảm là tín chỉ các-bon. Thêm vào đó, các cơ quan liên quan cần phối hợp để xây dựng cơ chế phát hiện và xử lý các hành vi, dự án gian lận, nâng cao vai trò giám sát và xác minh chất lượng tín chỉ các-bon.

Thứ năm, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý: Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tín chỉ các-bon và có liên kết với hệ thống quốc tế. Sử dụng công nghệ blockchain trong sàn giao dịch giúp đảm bảo tính minh bạch và tránh gian lận trong giao dịch tín chỉ các-bon

5. Kết luận

Việc công nhận tín chỉ các-bon là tài sản bảo đảm không chỉ là bước đi pháp lý cần thiết, mà còn là chìa khóa mở ra dòng chảy vốn cho thị trường các-bon non trẻ tại Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam, các điều kiện để tín chỉ carbon thực sự trở thành tài sản bảo đảm vẫn còn khiếm khuyết về mặt pháp lý và chưa được vận hành thử nghiệm trên thực tế. Vì vậy, thông qua kinh nghiệm của quốc tế và dựa trên điều kiện thực tế của Việt Nam, bài viết đã đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho tín chỉ các-bon trở thành tài sản bảo đảm, góp phần thúc đẩy tài chính xanh và thị trường các-bon trong nước.

---------------------------

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ luật dân sự 2015

2. Luật Bảo vệ môi trường 2020.

3. Nghị định 21/2021/NĐ-CP.

4. Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

5.http://baokiemtoan.vn/de-tin-chi-các-bon-la-tai-san-dam-bao-hop-phap-40427.html

6.https://www.anninhthudo.vn/tai-san-so-tin-chi-các-bon-co-the-lam-tai-san-the-chap-vay-ngan-hang-post610336.antd

7.https://globallawexperts.com/thailands-carbon-credit-policy-the-push-for-business-collateral/

8.https://www.corrs.com.au/insights/australian-carbon-credit-units-an-untapped-financial-product-and-asset

9.https://cer.gov.au/using-emissions-units-security#:~:text=On%20this%20page&text=Australian%20carbon%20credit%20units%20and,security%20interests%20in%20emissions%20units.

10.https://www.worldbank.org/en/news/press-release/2022/12/22/banco-mundial-banco-do-brasil-desenvolvem-solucao-financiamento-climatico#:~:text=World%20Bank%20and%20Banco%20do%20Brasil%20Develop,sector's%20capacity%20to%20access%20carbon%20credit%20markets.

Khổng Vũ Hà

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin