(Pháp Lý) - Tháng 5 này, đất nước ta diễn ra một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng – bầu cử Quốc hội khóa XV và HĐND các cấp nhiệm kì 2021- 2026.
Bầu cử là một quá trình đưa ra quyết định của công dân hoặc của thành viên một tổ chức để chọn ra các cá nhân nắm giữ các chức vụ thuộc chính quyền, thuộc ban lãnh đạo của một tổ chức, cơ quan, đơn vị nào đó. Bầu cử là cơ sở pháp lý cho việc hình thành ra các cơ quan đại diện cho quyền lực của Nhà nước. Do đó bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp có một ý nghĩa và vai trò rất quan trọng, và được thực hiện tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định.

Về vai trò, ý nghĩa bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp
- Ở nước ta, bầu cử là việc nhân dân lựa chọn, thành lập ra cơ quan đại diện là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp và ủy thác quyền lực nhà nước của mình cho họ. Do đó, bằng bầu cử để hợp pháp hóa chính quyền thuộc về nhân dân. Ý chí của nhân dân thông qua bầu cử là nền tảng của quyền lực nhà nước.
- Bầu cử là phương thức quan trọng mang tính nền tảng tạo lập nên cơ sở chính trị - pháp lý vững chắc của đất nước. Bằng bầu cử, không những nhân dân chính thức thừa nhận những người đại diện của mình là lực lượng lãnh đạo xã hội mà còn thông qua bầu cử thể hiện sự đa dạng về giai cấp, tầng lớp, dân tộc, địa phương, tín ngưỡng, tôn giáo.
Ở nước ta cũng như các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân ủy quyền cho các đại biểu dân cử thực hiện quyền lập pháp, lập quy, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và từng địa phương; đồng thời, các đại biểu thực hiện các quyền đó phải phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Trong bầu cử, thông qua lá phiếu của cử tri, nhân dân trao quyền và đặt niềm tin vào người đại diện để thực hiện quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, bầu cử được ví như là một cuộc trưng cầu dân ý về quan điểm, đường lối chính trị của Đảng, năng lực chính trị của các ứng viên.
- Bầu cử là một phương tiện quan trọng để nhân dân giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn chế sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Bầu cử thực chất là sự chuyển giao quyền lực nhà nước của nhân dân cho Nhà nước. Do vậy, quyền lực nhà nước cần phải được kiểm soát và giới hạn nhằm loại trừ một nghịch lý là quyền lực nhà nước của nhân dân nhưng nó lại có thể đi ngược lại chính nhân dân. Do vậy, việc nhân dân phải giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của mình để hạn chế sự tha hóa quyền lực nhà nước là cần thiết.
Kết thúc mỗi nhiệm kỳ Quốc hội, Hội đồng nhân dân, quyền lực nhà nước lại trở về với nhân dân. Quyền lực nhà nước không bị chiếm giữ lâu dài hay vĩnh viễn bởi những người được trao quyền. Trong cuộc bầu cử nhiệm kỳ mới, cử tri lại có quyền đánh giá, bày tỏ sự tín nhiệm về người đại diện và quyết định sự tái cử của họ thông qua phiếu bầu. Nếu quyền lực được trao không được sử dụng đúng đắn hoặc lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân thì quyền lực sẽ bị nhân dân thu lại bằng việc lựa chọn và trao lại cho người khác xứng đáng hơn. Quyền bãi nhiệm đại biểu là một nội dung của quyền bầu cử là đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa, thể hiện bản chất nhà nước và tính ưu việt của xã hội. Đó là chế tài mang tính chính trị nghiêm khắc nhất đối với đại biểu.
- Bầu cử phản ánh sự quan tâm của nhân dân đối với đời sống chính trị của đất nước và là phương thức thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động. Sự tham gia của nhân dân, của xã hội vào cuộc bầu cử không chỉ đơn giản và đơn thuần là việc đi bỏ phiếu mà là sự tham gia vào đời sống chính trị của nhân dân từ các công đoạn khác nhau của quy trình bầu cử, như tự ứng cử và giới thiệu người xứng đáng thay mặt mình, ứng cử, nhận xét, đánh giá các ứng viên tại các cuộc họp lấy ý kiến của cử tri nơi cư trú và nơi công tác; thực hiện quyền khiếu nại và tố cáo theo quy định của Luật Bầu cử … Sự quan tâm của cử tri đối với bầu cử phải được hình thành trên cơ sở nhận thức sâu sắc về lợi ích của bầu cử, từ ý thức chính trị của người dân đối với Nhà nước. Đây chính là yếu tố rất quan trọng, cơ bản cho sự thành công của một cuộc bầu cử.
Bầu cử chính là một trong những phương tiện để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước của mình. Sự giám sát, kiểm tra quyền lực nhà nước thông qua bầu cử thể hiện trên hai nội dung là tính định kỳ của các cuộc bầu cử do Hiến pháp và Luật Bầu cử quy định và bãi nhiệm đại biểu nếu họ không xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân.
Các nguyên tắc cơ bản của bầu cử ở Việt Nam hiện nay
Nguyên tắc bầu cử là điều kiện được quy định bởi luật bầu cử của mỗi nước, mà việc thực hiện và tuân thủ quy định đó trong quá trình bầu cử quyết định tính hợp pháp của cuộc bầu cử.
Với tư cách một thiết chế bảo đảm dân chủ, bầu cử có những nguyên tắc chung nhất, mà bất cứ hoạt động bầu cử ở đâu cũng đều phải tuân theo. Ở nước ta, bầu cử là một định chế quan trọng của dân chủ, nền tảng hợp pháp để hình thành các chức danh, cơ quan lãnh đạo của các tổ chức thành viên hệ thống chính trị.

Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nước ta quy định 4 nguyên tắc bầu cử: nguyên tắc phổ thông, nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc trực tiếp và nguyên tắc bỏ phiếu kín.
Nguyên tắc phổ thông
Pháp luật bầu cử của các nước đều khẳng định, nguyên tắc phổ thông đầu phiếu là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ bầu cử. Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu trong bầu cử bảo đảm để mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, (trừ những người mất trí hay những người bị tước quyền bầu cử trên cơ sở của pháp luật), đến tuổi trưởng thành đều được trao quyền bầu cử.
Yêu cầu của nguyên tắc này là Nhà nước phải bảo đảm để cuộc bầu cử thực sự trở thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền bầu cử của mình, bảo đảm tính dân chủ, công khai và sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân trong bầu cử.
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân của nước ta quy định đối với việc bầu cử đại biểu Quốc hội:
- Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, được Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là 115 ngày trước ngày diễn ra bầu cử;
- Các tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập công khai, có sự tham gia của đại diện các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và đoàn thể nhân dân;
- Thời gian bỏ phiếu được quy định thống nhất trong cả nước từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối (trừ những trường hợp đặc biệt theo quy định của Luật);
- Mọi công dân cư trú thường xuyên hoặc tạm trú đều được ghi tên vào danh sách cử tri;
- Danh sách cử tri được niêm yết công khai chậm nhất là 40 ngày trước ngày diễn ra bầu cử;
- Danh sách ứng cử viên cũng được lập và niêm yết công khai chậm nhất là 20 ngày trước ngày diễn ra bầu cử để cử tri tìm hiểu và lựa chọn.
Nguyên tắc bình đẳng
Bình đẳng trong bầu cử là nguyên tắc nhằm bảo đảm để mọi công dân đều có cơ hội ngang nhau tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ hình thức nào. Nội dung của nguyên tắc bình đẳng là mỗi cử tri có một phiếu bầu đối với một cuộc bầu cử và giá trị phiếu bầu như nhau không phụ thuộc vào giới tính, địa vị xã hội, sắc tộc, tôn giáo,… Nguyên tắc này được thể hiện trong các quy định của pháp luật về quyền bầu cử và ứng cử của công dân.
Nội dung nguyên tắc bình đẳng: Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri ở một nơi cư trú; Mỗi ứng cử viên chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử; Mỗi cử tri chỉ được bỏ một phiếu bầu. Nguyên tắc bình đẳng còn đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu để bảo đảm tiếng nói đại diện của các vùng, miền, địa phương, các tầng lớp xã hội, các dân tộc thiểu số và phụ nữ phải có tỷ lệ đại biểu thích đáng.
Nguyên tắc trực tiếp
Bầu cử trực tiếp có nghĩa là cử tri trực tiếp thể hiện ý chí của mình qua lá phiếu, cử tri trực tiếp bầu ra đại biểu của mình chứ không qua một cấp đại diện cử tri nào. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp đòi hỏi cử tri không được nhờ người bầu hộ, bầu thay hoặc bầu bằng cách gửi thư. Cử tri tự bỏ lá phiếu bầu vào hòm phiếu. Trường hợp cử tri không thể tự viết phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri; nếu cử tri vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến nơi ở của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện các thủ tục bỏ phiếu.
Trái với nguyên tắc bầu cử trực tiếp là nguyên tắc bầu cử gián tiếp. Theo nguyên tắc này, cử tri không trực tiếp bầu ra người đại diện cho mình, mà bầu ra thành viên của tuyển cử đoàn, sau đó tuyển cử đoàn mới bầu ra cơ quan đại diện hay chức danh nhà nước. Bầu cử gián tiếp có thể qua hai cấp, như bầu Tổng thống Mỹ (cử tri bầu ra Đại cử tri đoàn), Thượng nghị viện Pháp; hoặc bầu qua ba cấp, như bầu Quốc hội Trung Quốc (Đại hội đại biểu nhân dân toàn Trung Quốc).
Nguyên tắc bỏ phiếu kín
Nguyên tắc bỏ phiếu kín thể hiện ở việc loại trừ sự theo dõi và kiểm soát từ bên ngoài đối với việc thể hiện ý chí (sự bỏ phiếu) của cử tri. Mục đích của nguyên tắc này là nhằm đảm bảo tự do đầy đủ sự thể hiện ý chí của cử tri.
Theo nguyên tắc này, cử tri bầu ai, không bầu ai đều được bảo đảm bí mật. Khi cử tri viết phiếu bầu không ai được đến gần, kể cả cán bộ, nhân viên các tổ chức phụ trách bầu cử; không ai được biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của cử tri. Cử tri viết phiếu bầu trong buồng kín và bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Bốn nguyên tắc bầu cử nói trên là một chỉnh thể, thiếu sót ở nguyên tắc nào cũng ảnh hưởng đến nguyên tắc khác. Để buộc các chủ thể phải tuân thủ các nguyên tắc nói trên, Nhà nước pháp điển hóa các nội dung của chúng thành các quy phạm pháp luật. Có nguyên tắc được quy định rõ trong một quy định, có nguyên tắc được thể hiện bằng nhiều quy phạm pháp luật khác nhau.
Bầu cử là một định chế quan trọng của dân chủ, nền tảng hợp pháp để hình thành các chức danh, cơ quan lãnh đạo của các tổ chức thành viên thuộc hệ thống chính trị, trong đó có Đảng Cộng sản cầm quyền. Việc thiết kế, thực thi chế độ bầu cử tiến bộ, phù hợp, thực sự dân chủ là công việc quan trọng hàng đầu đối với bất cứ cơ quan chính quyền nhà nước, cũng như đối với tất cả các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Hà Trang ( T/h)