Những bất cập trong quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành về xử lý vật chứng

(Pháp lý). Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đã có những quy định đầy đủ về xử lý vật chứng tạo cơ sở pháp lý vững chắc, giúp cơ quan, người tiến hành tố tụng nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự cũng đã gặp khó khăn, vướng mắc về xử lý vật chứng, đòi hỏi phải nghiên cứu, giải quyết.
1-1745809113.jpg

Trong quá trình giải quyết vụ án, bên cạnh việc xử lý tội phạm, cơ quan, người tiến hành tố tụng còn phải xử lý cả những vật chứng, tài sản liên quan đến vụ án đã xảy ra nhằm xóa bỏ điều kiện hỗ trợ cho những hành vi phạm tội, khôi phục quyền lợi cho chủ sở hữu hợp pháp không có lỗi. Hoạt động xử lý vật chứng được tiến hành nhanh chóng, chính xác góp phần bảo đảm được sự nghiêm minh của pháp luật, công lý và công bằng trong xã hội; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đã có những quy định đầy đủ về xử lý vật chứng tạo cơ sở pháp lý vững chắc, giúp cơ quan, người tiến hành tố tụng nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự cũng đã gặp khó khăn, vướng mắc về xử lý vật chứng, đòi hỏi phải nghiên cứu, giải quyết.

Một số vướng mắc, bất cập

Thứ nhất thẩm quyền xử lý vật chứng:

Việc xử lý vật chứng theo quy định tại Điều 106 BLTTHS 2015 đã được hoàn thiện, theo đó BLTTHS 2015 đã bổ sung thẩm quyền xử lý vật chứng cho Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tại khoản 1 Điều 106. Tuy nhiên, điều luật chỉ đề cập ở giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử, còn ở giai đoạn khởi tố vụ án thì việc xử lý vật chứng chưa được đề cập rõ ràng. Cụ thể, khi giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được tiến hành một số nhiệm vụ quy định tại Khoản 2 Điều 39 và Khoản 2 Điều 40 LBTTHS năm 2015.

Tuy nhiên tại các điều luật này lại không để cấp căn cứ ra quyết định xử lý vật chứng của các cơ quan nêu trên nếu sau khi "thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật từ những người có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm” mà ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm hoặc ra quyết định không khởi tố. Như vậy, tham chiếu tại khoản 1 và khoản 3 Điều 106 BLTTHS 2015 thì các Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra sẽ gặp vướng mắc về căn cứ áp dụng để xử lý vật chứng.

Thứ hai đối tượng của hoạt động xử lý vật chứng:

Về xử lý vật chứng trong vụ án hình sự:  hiện nay các quy định tại Điều 106 BLTTHS 2015 chỉ áp dụng đối với vật là vật chứng trong một vụ án. Đối với vật được xác định là vật chứng của hai hay nhiều vụ án độc lập thì chưa có quy định nên xảy ra vướng mắc. Ví dụ: Viện kiểm sát truy tố Hoàng Thị A về tội "Giết người", vật chứng thu được trong vụ án là một con dao, qua nghiên cứu hồ sơ, tài liệu xác định được con dao đó là A mượn của Nguyễn Văn C và C đã dùng dao gây thương tích cho một người khác, việc xác định trách nhiệm hình sự đối với C sẽ được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định pháp luật. Theo quy định khi xét xử vụ án giết người, do con dao là vật chứng nên phải áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS 2015 để tiêu hủy.

Tuy nhiên, con dao này lại là vật chứng trong vụ án Cố ý gây thương tích và vụ án này chưa được xét xử. Nếu Hội đồng xét xử tuyên tiêu huy thì trong vụ án Cố ý gây thương tích được xét xử sau sẽ không còn vật chứng để xem xét, do vậy bản án sẽ không có tính thuyết phục cao. Trên thực tế, có quan điểm cho rằng, cách giải quyết phù hợp nhất là vẫn tạm giữ con dao để phục vụ cho việc giải quyết vụ án sau. Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh là việc tạm giữ con dao sẽ căn cứ vào điều luật nào của BLTTHS 2015 hay tại Điều 106 BLTTHS 2015 về xử lý vật chứng cũng không có quy định nào về trường hợp này.

2-1745809126.jpg

Ảnh minh họa

Thứ ba trình tự, thủ tục xử lý vật chứng:

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 106 BLTHS thì hiện nay việc xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội thì bị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước hoặc tiêu hủy. Trường hợp xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của loại vật chứng trên thì việc xử lý vật chứng không có gì phải bàn thêm. Tuy nhiên, trong trường hợp vật chứng bị người phạm tội sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội nhưng không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì xử lý như thế nào. Hơn nữa, BLTTHS hiện hành cũng không quy định về trình tự, thủ tục, biện pháp và thẩm quyền xác định chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp vật chứng trong trường hợp này. Thực tiễn có nhiều vụ án hình sự, sau khi người phạm tội khai nhận đã chiếm đoạt tài sản của người khác. Cơ quan điều tra đã thu giữ được và áp dụng biện pháp xác định chủ sở hữu là thông báo bằng cách niêm yết tờ thông báo trong một thời hạn nhất định tại cơ quan ra thông báo, tại địa phương hoặc trên phương tiện thông tin đại chúng, với số lần thông báo cũng khác nhau.

Vấn đề vướng mắc là trình tự, thủ tục Cơ quan điều tra ra thông báo tìm kiếm chủ sở hữu tài sản là vật chứng trong vụ án hình sự được thực hiện như thế nào chưa có quy định cụ thể dẫn đến việc thực hiện không thống nhất. Có trường hợp Cơ quan điều tra căn cứ vào quy định tại Điều 228 BLDS 2015 để ra thông báo tìm chủ sở hữu của tài sản với thời gian thường là 01 năm kể từ ngày ra thông báo, có Cơ quan điều tra lại thông báo thời hạn tương ứng với thời hạn điều tra đối với loại tội phạm cụ thể (tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng) bao gồm cả việc gia hạn. Khi hết thời hạn điều tra thì Cơ quan điều tra ra kết luận điều tra và đề nghị truy tố, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cung cấp cùng với vật chứng. Có thể thấy, việc Cơ quan điều tra ra thông báo tìm chủ sở hữu như đã đề cập ở trên là không thống nhất với quy định của BLDS.

Một số đề xuất kiến nghị

Thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, hoạt động xử lý vật chứng theo BLTTHS 2015 còn gặp những khó khăn, bất cập.

Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự. Theo đó, cần sớm hoàn thiện quy định của BLTTHS sửa đổi, bổ sung Điều 106 BLTTHS 2015, ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện các quy định của BLTTHS về xử lý vật chứng.

Cơ quan chức năng cần có  biện pháp đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là kỹ năng tố tụng cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm. Những người tiến hành tố tụng phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ về các quy định của pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền con người.

Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, chính sách pháp luật, nhất là chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội, bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cho cán bộ cơ quan tiến hành tố tụng các cấp.

 Có thể thấy, việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật và có những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý vật chứng trong pháp luật tố tụng hình sự không những khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong hoạt động xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự mà còn có tác dụng đảm bảo chất lượng hoạt động giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng đạt hiệu quả tốt và mang tính thuyết phục cao. 

Hoàng Thùy Linh (Tòa án quân sự Quân khu 7)

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin