
ĐBQH Trần Công Phàn
Tại phiên thảo luận tại Tổ họp Quốc hội chiều ngày 21/10 vừa qua, Đại biểu Quốc hội Trần Công Phàn có nhận xét: “có thể nói, chưa có nhiệm kỳ nào Quốc hội ban hành, xây dựng luật nhiều như nhiệm kỳ này” và cho rằng cần nhìn nhận, đánh giá lại hiệu quả công tác xây dựng, ban hành luật và tính khả thi. Trả lời phỏng vấn Tạp chí Pháp lý, Đại biểu Quốc hội Trần Công Phàn nhấn mạnh: Quy trình ban hành các đạo luật trong giai đoạn tới cần được điều chỉnh theo hướng mở, linh hoạt và tương tác nhiều chiều. Theo đó cần tập trung vào ba yếu tố then chốt: Lấy thực tiễn làm điểm xuất phát; Mở rộng cơ chế tham vấn, đối thoại xã hội; Nâng cao chất lượng thể chế hóa và tổ chức thực thi.
PV: Theo tinh thần Nghị quyết 66 – NQ/TW, tới đây sẽ có một số lĩnh vực pháp luật được hoàn thiện theo hướng “pháp luật kiến tạo phát triển”. Ông có thể cho biết ý nghĩa và tác động của tinh thần này, cũng như những lưu ý để tránh việc lạm dụng?
ĐBQH Trần Công Phàn: Tinh thần “pháp luật kiến tạo phát triển” đã được đề cập từ Nghị quyết số 27-NQ/TW năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Nghị quyết 27 đã đặt ra yêu cầu xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, khả thi, lấy quyền con người, quyền công dân và lợi ích chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trung tâm; đồng thời tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế.
Trên nền tảng đó, Nghị quyết 66-NQ/TW của Bộ Chính trị đã tiếp tục cụ thể hóa định hướng của Trung ương trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, với mục tiêu hướng tới một hệ thống pháp luật không chỉ “điều chỉnh và kiểm soát”, mà còn chủ động thúc đẩy phát triển, khơi thông các nguồn lực xã hội, tháo gỡ rào cản thể chế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tinh thần này thể hiện sự chuyển đổi căn bản của trong tư duy lập pháp phù hợp với định hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. Hay nói cách khác đây là một bước chuyển quan trọng trong tư duy lập pháp của Đảng và Nhà nước, từ chỗ “pháp luật là công cụ quản lý” sang “pháp luật kiến tạo”.
Nếu trước đây, pháp luật chủ yếu được nhìn nhận như công cụ để quản lý, kiểm soát, thì nay pháp luật còn phải kiến tạo – tức là thiết kế, tổ chức và thúc đẩy sự phát triển. “Kiến tạo phát triển” đồng nghĩa với việc: (i) Xây dựng hệ thống pháp luật có tính dự báo, thích ứng, mở đường cho cái mới thay vì chỉ chạy theo thực tiễn để điều chỉnh; (ii) Khơi thông mọi nguồn lực của xã hội, đặc biệt là nguồn lực con người, khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo; (iii) Tạo lập môi trường pháp lý minh bạch, thuận lợi và công bằng cho người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư; (iv) Góp phần khẳng định vai trò Nhà nước pháp quyền kiến tạo, Nhà nước không làm thay, không can thiệp quá mức, mà tập trung vào việc thiết lập thể chế để thị trường và xã hội vận hành hiệu quả.
“Pháp luật kiến tạo phát triển”, tuy nhiên, kiến tạo không có nghĩa là buông lỏng. Pháp luật dù hướng tới phát triển nhưng vẫn phải bảo đảm tính nghiêm minh, minh bạch, công bằng và trách nhiệm giải trình. Nếu không, “kiến tạo” rất dễ bị biến tướng thành “ưu ái chính sách”. Kiến tạo trong xây dựng pháp luật chỉ thực sự có ý nghĩa khi đặt trong khuôn khổ của Hiến pháp, trên nền tảng thượng tôn pháp luật và phục vụ lợi ích công. Đó mới là cách tiếp cận đúng đắn để pháp luật thực sự trở thành động lực cho phát triển bền vững, chứ không chỉ là công cụ quản lý thuần túy.

Quang cảnh phiên họp Quốc hội
PV: Từ những định hướng của NQ 66 – NQ/TW, theo ông qui trình ban hành các đạo luật tới đây có cần điều chỉnh? Trong qui trình ban hành các đạo luật, những vấn đề cốt lõi nào cần có để đảm bảo đưa cuộc sống vào pháp luật và ngược lại ???
ĐBQH Trần Công Phàn: Theo tinh thần của Nghị quyết 66, việc đổi mới quy trình xây dựng pháp luật là yêu cầu tất yếu. Thực tế cho thấy, việc xây dựng pháp luật nếu không xuất phát từ thực tế cuộc sống, thiếu thực tiễn và ít sự tham gia rộng rãi của xã hội, thì dù chủ trương có đúng đắn đến đâu, luật ban hành cũng khó đi vào cuộc sống. Do đó, quy trình ban hành các đạo luật trong giai đoạn tới cần được điều chỉnh theo hướng mở, linh hoạt và tương tác nhiều chiều.Theo tôi có ba yếu tố then chốt:
Thứ nhất, phải lấy thực tiễn làm điểm xuất phát. Chính sách và quy định pháp luật phải được hình thành từ bằng chứng, số liệu, nhu cầu của người dân và doanh nghiệp. Việc tổng kết thi hành pháp luật và đánh giá tác động chính sách cần được thực hiện thực chất, khách quan.
Thứ hai, cần mở rộng cơ chế tham vấn, đối thoại xã hội. Người dân, doanh nghiệp, giới học giả và tổ chức xã hội nghề nghiệp, đặc biệt là các tổ chức chính trị- xã hội như Hội Luật gia Việt Nam cần được tham gia sâu hơn trong giai đoạn soạn thảo và phản biện. Điều này không chỉ giúp phát hiện bất cập sớm, mà còn tạo đồng thuận xã hội, nền tảng để pháp luật “sống” trong đời sống.
Thứ ba, phải nâng cao chất lượng xây dựng luật đi đôi với việc tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả. Chất lượng của các đạo luật không chỉ được đo bằng quy trình lập pháp chuẩn mực, mà còn bằng mức độ các qui định pháp luật đi vào cuộc sống, có khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn và tạo ra giá trị xã hội cụ thể.
Một hệ thống pháp luật hoàn thiện và chuẩn mực đến đâu, nếu thiếu nguồn lực thực hiện, thiếu cơ chế tổ chức và giám sát phù hợp, thì vẫn khó đi vào cuộc sống. Trên thực tế, nhiều đạo luật sau khi ban hành đã chậm đi vào cuộc sống do thiếu hướng dẫn chi tiết, thiếu phối hợp giữa các cơ quan thực thi hoặc chưa gắn với năng lực quản trị của bộ máy hành chính.
Từ góc nhìn đó, theo tôi yêu cầu đặt ra là phải đồng bộ giữa cải cách công tác lập pháp và cải cách hành chính, bởi hai lĩnh vực này có mối quan hệ hữu cơ với nhau: lập pháp tạo khung thể chế, còn hành chính đảm bảo việc hiện thực hóa khung thể chế ấy trong đời sống. Muốn vậy, cần tăng cường cơ chế trách nhiệm giải trình, giám sát thi hành pháp luật, đặc biệt là cơ chế hậu kiểm (tức theo dõi, đánh giá và điều chỉnh chính sách, pháp luật sau khi đã được triển khai). Đây chính là cách thức để bảo đảm vòng tròn chính sách – pháp luật – thực thi – đánh giá – điều chỉnh được khép kín và vận hành liên tục.
Nói cách khác, quy trình lập pháp của chúng ta cần chuyển từ tư duy "ban hành đúng quy trình" sang "quy trình kiến tạo" – tức là quy trình mà trong đó pháp luật không chỉ được hình thành từ ý chí chủ quan của cơ quan nhà nước, mà phải xuất phát từ nhu cầu, thực tiễn, và động lực phát triển của xã hội. Khi đó, pháp luật trở thành sản phẩm của đời sống, phản ánh đúng nhịp đập của đời sống và khi được ban hành, quay trở lại để phục vụ, điều tiết và thúc đẩy cuộc sống xã hội phát triển. Đây cũng chính là bản chất sâu xa của "pháp luật kiến tạo phát triển" mà Nghị quyết 66 định hướng.
PV: Xin hỏi thêm ông 1 ý liên quan công tác tư pháp: Như ông chia sẻ tại phiên thảo luận ở tổ ngày 21.10, một số nước có những trung tâm nghiên cứu về nguyên nhân, điều kiện, các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Còn ở Việt Nam chưa chú trọng đúng mức đối với Trung tâm nghiên cứu về phòng chống tội phạm. Ông có hiến kế gì cho ngành tư pháp không ?
ĐBQH Trần Công Phàn: Tôi cho rằng việc thành lập Trung tâm nghiên cứu về nguyên nhân, điều kiện và biện pháp phòng ngừa tội phạm là rất cần thiết và có ý nghĩa chiến lược trong bối cảnh nước ta đang đổi mới tư duy về công tác tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW và Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị. Thực tế cho thấy, ở nhiều quốc gia phát triển (Thụy Điển, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên Hợp quốc…), những trung tâm nghiên cứu như vậy giúp cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định pháp luật, cải cách tư pháp, nhất là nghiên cứu về chính sách pháp luật hình sự, cũng như việc nghiên cứu về thực trạng, nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm; dự báo về tội phạm…. Trên cơ sở đó, xây dựng các chương trình phòng ngừa tội phạm hữu hiệu.
Tại Việt Nam, chúng ta mới chỉ có một số đơn vị nghiên cứu về phòng ngừa về tội phạm trực thuộc các cơ quan chuyên ngành của Bộ Công an (như: Trung tâm Nghiên cứu tội phạm học và Điều tra tội phạm thuộc Học viện Cảnh sát nhân dân, Trung tâm nghiên cứu, ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ KHHS thuộc Viện Khoa học hình sự). Ngoài ra còn có Trung tâm Phòng chống tội phạm xuyên quốc gia Việt - Úc (JTCC) là cơ quan hợp tác thực thi pháp luật giữa Việt Nam và Úc, được thành lập nhằm phối hợp phòng chống các loại tội phạm xuyên quốc gia ảnh hưởng đến cả hai nước… Tuy nhiên hoạt động của các Trung tâm này còn thiếu sự kết nối, phối hợp mang tầm quốc gia. Hay nói cách khác, đến thời điểm này Việt Nam chưa hình thành một thiết chế nghiên cứu về phòng chống tội phạm độc lập, mang tính xã hội hóa cao.
Tới đây, ngành tư pháp cần quan tâm đến việc hình thành Trung tâm nghiên cứu phòng ngừa tội phạm quốc gia, cần có các thiết chế, tăng cường các Trung tâm nghiên cứu phòng, chống tội phạm. Những Trung tâm này có thể đảm nhiệm nhiều chức năng quan trọng như: Nghiên cứu, phân tích dữ liệu tội phạm học, xác định nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm trong bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam; Đề xuất chính sách, pháp luật và giải pháp tư pháp dựa trên bằng chứng thực tiễn – đúng tinh thần “đưa cuộc sống vào pháp luật, và pháp luật vào cuộc sống” mà Nghị quyết 66 đã nhấn mạnh; Thúc đẩy hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình phòng ngừa tội phạm tiên tiến, nhân đạo và hiệu quả;
Hội Luật gia Việt Nam với số lượng hội viên đông ( trên 100.000 hội viên), là những luật gia đã và đang công tác tại các cơ quan pháp luật, có kinh nghiệm và kiến thức pháp luật. Hội Luật gia VN sẵn sàng tham gia với tư cách là một đơn vị phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả với Trung tâm, đồng thời thực hiện tư vấn, phản biện xã hội đối với các dự án luật liên quan đến lĩnh vực hình sự, tư pháp, thi hành án.
PV: Trân trọng cảm ơn ông đã dành thời gian trả lời phỏng vấn TCPL !