Xây dựng nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1. Khái niệm “nền tư pháp” trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1.1. Khái niệm “nền tư pháp” ở Việt Nam

Ở Việt Nam, thuật ngữ “nền tư pháp” được xây dựng trên cơ sở cách tiếp cận rộng về khái niệm tư pháp[1]. Ở nghĩa rộng nhất, tư pháp là quyền xét xử của Tòa án, cũng như các hoạt động áp dụng pháp luật của hệ thống các cơ quan như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát… và cả các cơ quan bổ trợ tư pháp như luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch… nhằm bảo đảm cho việc thực hiện quyền xét xử đạt được hiệu quả cao, để giải quyết những xung đột của các mối quan hệ xã hội[2]… Hay, tất cả những vấn đề liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án đều thuộc nội hàm của khái niệm tư pháp[3]. Trên cơ sở định nghĩa này, có thể hiểu, nền tư pháp là tổng thể các thể chế, thiết chế, quy luật vận hành và yếu tố bảo đảm xoay quanh hoạt động xét xử của cơ quan thực hiện quyền tư pháp là Tòa án nhân dân.

Nền tư pháp của nước ta được tạo thành từ nhiều bộ phận, trong đó có vai trò trung tâm của: (i) Các thiết chế tư pháp (các cơ quan tư pháp: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra; cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp: Tổ chức luật sư, công chức, giám định tư pháp, trọng tài thương mại…); (ii) Nguồn nhân lực tư pháp (cán bộ, công chức, người lao động đang công tác tại các cơ quan tư pháp; những người lao động trong các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp); (iii) Thể chế tư pháp (tổng thể hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Hiến pháp đóng vai trò là đạo luật gốc, có hiệu lực pháp lý cao nhất). Thể chế tư pháp định hình lên mô hình tổ chức của các cơ quan tư pháp, hệ thống nguyên tắc, cơ chế hoạt động, vận hành của nền tư pháp quốc gia, bảo đảm nền tư pháp thể hiện đầy đủ bản chất tư pháp của quốc gia[4].

1.2. Nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Như đã đề cập, nền tư pháp thể hiện cho bản chất tư pháp của một quốc gia. Ở Việt Nam, nền tư pháp phản ánh đầy đủ bản chất của nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bản chất đó được thể hiện dưới một số góc độ sau:

Một là, nền tư pháp ở nước ta được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo hệ thống cơ quan tư pháp là một nội dung rất quan trọng, là đặc trưng cơ bản của nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng không can thiệp vào hoạt động chuyên môn của các cơ quan tư pháp. Mục đích lãnh đạo của Đảng là bảo đảm hoạt động của các cơ quan tư pháp theo đúng đường lối chính trị, kiên định đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; bảo đảm phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ theo luật định, duy trì và bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, vì sự công bằng, dân chủ và nghiêm minh trong tổ chức thi hành pháp luật[5].

Hai là, nền tư pháp ở nước ta được xây dựng, vận hành trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp và pháp luật phải quy định những trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ[6], phân định quyền hạn, trách nhiệm, cơ cấu, tổ chức và cách thức vận hành giúp các cơ quan tư pháp với trung tâm là Tòa án nhân dân thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, giải quyết các các xung đột xã hội, bảo đảm chế độ tư pháp được thực thi.

Ba là, nền tư pháp được xây dựng chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Do đó, mục đích của nền tư pháp gồm[7]: (i) Bảo vệ chế độ Hiến pháp, quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức trong xã hội; (ii) Bảo vệ hòa bình, an ninh nhân loại; (iii) Bảo đảm đưa các nguyên tắc chung của Nhà nước pháp quyền vào cuộc sống.

Bốn là, nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được vận hành trên nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tòa án với vai trò là trung tâm của nền tư pháp được bảo đảm sự độc lập theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Năm là, nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế.

2. Yêu cầu xây dựng nền tư pháp đáp ứng yêu cầu hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới

Việc đặt ra mục tiêu cơ bản hoàn thành việc xây dựng nền tư pháp của nước nhà trong giai đoạn mới là yêu cầu tất yếu, thể hiện trên một số phương diện sau:

Một là, dưới góc độ chính trị, pháp lý, cải cách tư pháp và xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại là mục tiêu quan trọng trong tiến trình hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đầu thế kỷ XXI tới nay, cải cách tư pháp là nội dung nhận được nhiều sự quan tâm của Đảng và hệ thống chính trị. Tiếp nối nội dung của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW), cải cách tư pháp là đòi hỏi tất yếu đáp ứng yêu cầu phát triển và bảo vệ đất nước. Mục tiêu là xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa[8]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua các bản Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Hiến pháp năm 2013, quan điểm về tư pháp, hệ thống tư pháp và quyền tư pháp ngày càng được hoàn thiện là nền tảng cho nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII[9], trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân, Đảng ta xác định cần xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Trải qua hơn 20 năm đổi mới và xây dựng, đây là thời điểm thích hợp để Đảng và hệ thống chính trị xác định “điểm đích” - diện mạo và thời điểm hoàn thành cơ bản nền tư pháp của nước nhà.

Hai là, dưới góc độ lý luận, tư pháp nói chung và nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính nói riêng là một trong những trụ cột quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nền tư pháp của nước ta có những nét đặc sắc, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ. Mặc dù lý luận về tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định quyền tư pháp do Tòa án nhân dân thực hiện, trong hoạt động xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, tuy nhiên, một số vấn đề khác vẫn cần tiếp tục làm rõ như nội hàm của tư pháp, nền tư pháp, cơ quan tư pháp để bảo đảm sự đồng nhất về nhận thức trong tiến trình cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo đúng tinh thần của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Ba là, dưới góc độ thực tiễn, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung và nền tư pháp nói riêng vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Trong đó, nổi lên một số vấn đề như việc chưa thực hiện được một số chủ trương đúng đắn về xác định tổ chức và hoạt động của Tòa án và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp[10]; hệ thống Tòa án chưa thực hiện được triệt để việc tổ chức bảo đảm phân định rõ thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp; vấn đề kiểm sát hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát; mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra; vấn đề nguồn nhân lực cho nền tư pháp; vấn đề hoàn thiện và phát triển các thiết chế bổ trợ tư pháp… Điều này đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết hiệu quả các vấn đề này, xây dựng nền tư pháp trong giai đoạn mới trên cơ sở các quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về xây dựng nền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Bốn là, dưới tác động của xu hướng hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa, các cuộc Cách mạng công nghiệp làm nảy sinh nhiều vấn đề mới đối với nền tư pháp của nước nhà. Tình hình vi phạm, tội phạm có xu hướng ngày càng gia tăng, phức tạp, nghiêm trọng hơn khiến nhu cầu của người dân tìm đến tư pháp trở nên thường xuyên hơn; trình độ dân trí ngày càng cao, đặt ra yêu cầu cao với nền tư pháp; tiếp thu có chọn lọc các giá trị mang tính phổ quát, tiến bộ về tư pháp, quyền con người, quyền công dân của nhân loại đã và đang trở thành một xu thế tất yếu của cải cách tư pháp. Hiện nay, những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang đến nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn đối với nền tư pháp. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những khái niệm nền tảng của tư pháp có thể bị thay đổi dưới tác động của trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, dữ liệu lớn… Cùng với đó, trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, yêu cầu về xây dựng, hoàn thiện hệ thống tư pháp là yêu cầu tất yếu.

Trên cơ sở bám sát thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại, nhằm giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn trên, ngày 09/11/2022, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW). Nghị quyết xác định, xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân là một trong 05 mục tiêu quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

3. Nội dung về xây dựng nền tư pháp trong giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW

3.1. Đặc trưng của quyền tư pháp trong giai đoạn mới

Trên cơ sở tinh thần của Nghị quyết số 27-NQ/TW, có thể rút ra các đặc trưng của quyền tư pháp trong giai đoạn mới như sau:

Một là, tính thống nhất: Việc thực hiện quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước; sự thống nhất được hiểu là mọi quyền lực (trong đó có quyền tư pháp) phải thuộc về nhân dân. Bản chất quyền lực của bộ máy nhà nước là quyền lực do nhân dân ủy quyền. Sự phân chia tuyệt đối giữa quyền lập pháp - hành pháp - tư pháp theo Thuyết Tam quyền phân lập, xem đây là kiểu mẫu cho tổ chức nền tư pháp dường như đi ngược lại với bản chất của quyền lực nhân dân, chú trọng đến lợi ích của đảng phái chính trị. Chính điều này đã khẳng định sự phân quyền hay độc lập tuyệt đối của Tòa án trong tổ chức thực hiện quyền lực lạc hậu so với sự vận động và phát triển của xã hội[11].

Hai là, Tòa án là cơ quan nhà nước được phân công thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý trên cơ sở được bảo đảm sự độc lập trong hoạt động xét xử. Nghị quyết số 27-NQ/TW khẳng định bảo đảm sự độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Quyền năng của Tòa án được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo vệ, bảo đảm. Tòa án độc lập trong việc đưa ra phán quyết và chịu trách nhiệm trước pháp luật, công lý. Trong hệ thống Tòa án, chỉ có quan hệ giữa Tòa cấp cao hơn và Tòa cấp thấp hơn theo thẩm quyền tố tụng mà không có Tòa cấp trên và Tòa cấp dưới theo thẩm quyền hành chính[12]. Mọi hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án đều bị coi là trái pháp luật, phải được phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý kịp thời.

Ba là, tính phối hợp chặt chẽ và tính kiểm soát hiệu quả. Quyền tư pháp thực hiện bởi Tòa án nhân dân được bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp khác với vai trò trung tâm của Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án và các thiết chế bổ trợ tư pháp. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Tòa án, sự thiếu vắng hoặc yếu kém trong năng lực của bất kỳ thiết chế nào vừa được đề cập đều tác động tiêu cực đến chất lượng của quyền tư pháp. Tính kiểm soát hiệu quả của quyền tư pháp được tiếp cận dưới hai góc độ: Tư pháp kiểm soát quyền lực nhà nước và sự kiểm soát quyền lực tư pháp bằng quyền năng của các cơ quan khác. Trong mọi trường hợp, tính phối hợp và kiểm soát giữa cơ quan thực hiện quyền tư pháp với các thiết chế vừa được đề cập không được phép xâm phạm đến sự độc lập của Tòa án.

Bốn là, quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự giám sát hiệu quả, chặt chẽ của nhân dân. Cơ chế giám sát được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các thiết chế truyền thông, báo chí.

 3.2. Mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong giai đoạn mới

Xây dựng nền tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới là một trong 10 nhiệm vụ, giải pháp quan trọng được đặt ra tại Nghị quyết số 27-NQ/TW. Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định mục tiêu xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Để cơ bản hoàn thành công tác này vào năm 2030, Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định 03 trọng tâm trong giai đoạn mới gồm: (i) Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật; (ii) Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước đi đôi với nâng cao năng lực thực thi; xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; (iii) Đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

3.3. Các cơ quan tư pháp trong giai đoạn mới

Nội dung của Nghị quyết số 27-NQ/TW đã hướng đến giải quyết các vấn đề cốt lõi của nền tư pháp nước ta, lấy sửa đổi thể chế là cơ sở nền tảng, đồng thời đặt ra những điều kiện bảo đảm sự vận hành đúng đắn của các “module” tạo nên nền tư pháp đó.

Trung tâm của quá trình xây dựng nền tư pháp là Tòa án và thực hiện quyền tư pháp. Tòa án là cơ quan hiến định thực hiện quyền tư pháp[13]. Đối với Tòa án, để thực hiện được mục tiêu này, đòi hỏi hệ thống Tòa án phải được tiếp tục hoàn thiện về mặt tổ chức theo thẩm quyền xét xử, khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp Tòa án là quan hệ hành chính; phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng Tòa án điện tử.

Bên cạnh đó, Nghị quyết số 27-NQ/TW cũng đặt ra yêu cầu hoàn thiện tổ chức và hoạt động đối với các cơ quan tư pháp khác gồm Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, hệ thống cơ quan thi hành án, cụ thể:

- Đối với Viện kiểm sát nhân dân, trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi thiết chế này phải tiếp tục thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; hoàn thiện cơ chế tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, tăng cường kiểm soát bên trong việc thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử phù hợp với nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

- Đối với cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện tổ chức của thiết chế này theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả. Bên cạnh việc nhanh chóng, kịp thời áp dụng các biện pháp nghiệp vụ nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cần bảo đảm tốt hơn nữa quyền con người, quyền công dân đối với người bị giữ, bị bắt, tạm giữ, tạm giam. Ngoài ra, Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt vấn đề nghiên cứu hoàn thiện cơ chế Cơ quan điều tra kiến nghị xem xét, giải quyết trường hợp các lệnh, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra bị Viện kiểm sát hủy bỏ hoặc không phê chuẩn không phù hợp với quy định của pháp luật nhằm tăng cường mối quan hệ chế ước giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hệ thống cơ quan thi hành án hình sự cần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quản lý giáo dục, cải tạo phạm nhân, quản lý, giám sát, giáo dục người chấp hành án hình sự tại cộng đồng; bảo đảm và bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân đối với người chấp hành án theo quy định của pháp luật. Các cơ quan thi hành án dân sự cần hoàn thiện cơ chế nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành án dân sự, hành chính theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành án hình sự, dân sự và hành chính; thực hiện xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự với cơ chế bảo đảm và lộ trình phù hợp.

3.4. Thiết chế bổ trợ tư pháp

Các thiết chế bổ trợ tư pháp được xác định là một bộ phận quan trọng trong nền tư pháp của nước ta. Nghị quyết số 27-NQ/TW tập trung giải quyết tốt vấn đề nâng cao tính chuyên nghiệp, hiện đại, bảo đảm chất lượng hoạt động, phát huy vai trò của các thiết chế bổ trợ tư pháp gồm đội ngũ luật sư, công chứng, hòa giải, trọng tài, thừa phát lại, giám định tư pháp, trợ giúp pháp lý. Theo đó, Nghị quyết số 27-NQ/TW đặt mục tiêu tiếp tục hoàn thiện thể chế để bảo đảm các thiết chế này thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng, củng cố số lượng và chất lượng của đội ngũ nhân lực tham gia vào các thiết chế bổ trợ tư pháp. Đội ngũ luật sư cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, am hiểu pháp luật, giỏi về kỹ năng hành nghề và ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Chuyên nghiệp hóa đội ngũ hành nghề công chứng, hòa giải, trọng tài, thừa phát lại, giám định tư pháp, tăng cường ý thức tuân thủ pháp luật và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội. Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng trợ giúp pháp lý, nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp; hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý; mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước.

3.5. Nguồn nhân lực tư pháp

Nghị quyết số 27-NQ/TW khẳng định nguồn nhân lực tư pháp có vai trò trung tâm, là yếu tố quyết định đến sự thành công của việc xây dựng một nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Do đó, Đảng đã đặt ra nhiệm vụ phải phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp; rà soát, sắp xếp hợp lý các cơ sở đào tạo cử nhân luật. Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân lực tư pháp. Bên cạnh đó, cần mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Đổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ nhiệm và cơ chế bảo đảm để đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác, liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là đối với đội ngũ thẩm phán[14].

3.6. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tư pháp

Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định, cần hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Trong lĩnh vực tố tụng, tiếp tục thực hiện các định hướng trong chiến lược cải cách tư pháp tại Nghị quyết số 49-NQ/TW, lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; áp dụng hiệu quả thủ tục tố tụng tư pháp rút gọn. Đồng thời, Nghị quyết số 27-NQ/TW xác định các thành tố mới như tăng cường dân chủ trong hoạt động tư pháp thông qua việc đổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế nhân dân tham gia xét xử tại Tòa án; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Trong giai đoạn mới, để bảo đảm chất lượng của hoạt động tư pháp, pháp luật, phải tạo ra cơ chế phù hợp để kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp; nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trong trường hợp chủ thể các quyền dân sự là nhóm dễ bị tổn thương hoặc trường hợp liên quan đến lợi ích công nhưng không có người đứng ra khởi kiện.

Vũ Đình Hoàng

Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị khu vực I


[1]. Trong phạm vi của bài viết này, tác giả không bàn sâu về khái niệm “quyền tư pháp”. Theo quan điểm của tác giả, riêng khái niệm “quyền tư pháp” phải được hiểu ở nghĩa hẹp.

[2]. Xem thêm các quan điểm khác nhau về tư pháp và gắn với Nhà nước pháp quyền trong sách: Lê Văn Cảm, Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009, tr. 51.

[3]. Quan điểm của đồng chí Hoàng Thị Quỳnh Chi, Vụ Trưởng Vụ 11, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại Chương trình tập huấn kiến thức mới về Nhà nước pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 9/2022.

[4]. Võ Khánh Vinh, Thực trạng cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua và những vấn đề đặt ra, https://lsvn.vn/thuc-trang-cai-cach-tu-phap-o-nuoc-ta-thoi-gian-qua-va-nhung-van-de-dat-ra1632586508.html, truy cập ngày 09/02/2023.

[5]. Nguyễn Văn Quyền, Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/1775/dang-lanh-dao-cac-co-quan-tu-phap—trong-dieu-kien-xay-dung-nha-nuoc—phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-cua-nhan-dan%2C-do-nhan-dan-va-vi-nhan-dan.aspx, truy cập ngày 13/02/2023.

[6]. Trịnh Tiến Việt, Vũ Đình Hoàng, Thực hiện quyền tư pháp và các định hướng cải cách tư pháp nhằm thực hiện tốt quyền tư pháp trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 17, 9/2022.

[7]. Lê Văn Cảm, tlđd, tr. 65.

[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tr. 2.

[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 177.

[10]. Võ Khánh Vinh, tlđd.

[11]. Vũ Văn Hiển, Một số luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2020, tr. 230 - 231.

[12]. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Báo cáo chuyên đề “Những khái niệm cơ bản về tư pháp, quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, cơ quan tư pháp, chức danh tư pháp, hoạt động bổ trợ tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp phục vụ xây dựng chiến lược mới về cải cách tư pháp ở Việt Nam”, 9/2021, tr. 6.

[13]. Điều 102 Hiến pháp năm 2013.

[14]. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

 

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin