Thể chế về phòng, chống tham nhũng của Việt Nam - Những tiến triển và thách thức

(Pháp lý). Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ tiếp cận, đánh giá khuôn khổ thể chế về phòng, chống tham nhũng (PCTN ) bao gồm Luật PCTN và các Nghị định hướng dẫn thi hành cùng các quy định có liên quan như quy định của pháp luật hình sự về tội phạm tham nhũng; phần tội phạm tham nhũng được quy định trong Bộ luật Hình sự; Chiến lược quốc gia về chống tham nhũng; pháp luật về bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng…
11-1733975592.jpg

Ảnh minh họa

Phát biểu trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 8 của Quốc hội vào ngày 21/10/2024, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh: “Trong ba điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực thì thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn”.

Trong một bài viết về vấn đề này, TS. Nguyễn Sỹ Dũng tiếp cận “Thể chế là hệ thống các thiết chế (Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội...) và các quy tắc, luật lệ điều chỉnh hoạt động của chúng”. Đồng thời chỉ ra, nghẽn thể chế là hiện tượng hệ thống các thiết chế hoạt động bế tắc, kém hiệu quả vì các quy tắc, luật lệ ôm đồm, chồng chéo và xung đột. Về bản chất, nghẽn thể chế là hiện tượng các thiết chế hoạt động bế tắc, kém hiệu quả. Nguyên nhân của nghẽn thể chế là sự ôm đồm, chồng chéo và xung đột của các quy tắc, luật lệ (hay hệ thống pháp luật).

Trong báo cáo chuyên đề “Tháo gỡ những điểm nghẽn, nút thắt về thể chế” của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW sáng ngày 01/12/2024 đã đề cập đến thể chế là hệ thống pháp luật, là các quy định pháp luật. Trong đó đánh giá “chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, một số luật mới ban hành đã phải sửa đổi; các quy định chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, nhiều quy định còn khó khăn, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và nước ngoài, khơi thông nguồn lực trong dân. Những tồn tại, hạn chế kéo dài đã nhiều năm cần khẩn trương khắc phục, không để cản trở phát triển, gây lãng phí, lỡ thời cơ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, nhưng trọng trách rất lớn đặt lên vai của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội và Chính phủ”

1. Thể chế phòng, chống tham nhũng

Trong phòng, chống tham nhũng (PCTN), khuôn khổ thể chế chính là các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về PCTN. Trong đó bao gồm cả các quy định về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các thiết chế có chức năng PCTN.

Với tiếp cận thể chế là các quy định pháp luật thì thể chế về PCTN là khái niệm có nội hàm rất rộng, do phòng ngừa tham nhũng được thể hiện trong gần hết các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ tiếp cận, đánh giá khuôn khổ thể chế về PCTN bao gồm Luật PCTN và các Nghị định hướng dẫn thi hành cùng các quy định có liên quan như quy định của pháp luật hình sự về tội phạm tham nhũng; phần tội phạm tham nhũng được quy định trong Bộ luật Hình sự; Chiến lược quốc gia về chống tham nhũng; pháp luật về bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng…

2. Những dấu mốc quan trọng thể hiện sự tiến triển của thể chế về PCTN

a) Luật PCTN 2018 được ban hành, thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về PCTN và khắc phục những bất cập của Luật PCTN 2005

 Sau 10 năm thi hành Luật PCTN 2005, công tác PCTN đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; giúp cải thiện môi trường kinh doanh và đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Nỗ lực PCTN của Việt Nam cũng đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong khuôn khổ thực thi Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên và nhiều diễn đàn quốc tế khác.

22-1733975592.jpg

Triển khai việc sửa đổi toàn diện Luật PCTN 2005 là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước và tác động đến sự ổn định, phát triển của đất nước. Luật PCTN 2018 (có hiệu lực ngày 01/7/2019) đã tiếp tục quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các chủ trương, đường lối, chính sách có liên quan của Đảng, Nhà nước về công tác PCTN, đặc biệt là các giải pháp đề ra trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X); Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI; Kết luận Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI); Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XII và lần thứ XIII của Đảng; Chỉ thị số 33- CT/TW ngày 03/01/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản…

Sau khi Luật PCTN 2018 được Quốc hội thông qua, Chính phủ đã ban hành một số Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật PCTN; Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020 về kiểm soát, tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; ….Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 56-QĐ/TW ngày 08/02/2022 về ban hành Quy chế phối hợp giữa các cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập. Các bộ, ngành cũng ban hành một số thông tư theo yêu cầu của Chính phủ để tổ chức thực hiện Luật PCTN (Thông tư quy định danh mục và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị).

Luật PCTN 2018 và các văn bản hướng dẫn thể hiện tinh thần từng bước mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật đối với khu vực ngoài nhà nước (các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực hiện, bao gồm: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi). Việc này phù hợp với quan điểm chỉ đạo tại Kết luận số 10-KL/TW ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí; đồng bộ với Bộ luật Hình sự đã mở rộng quy định xử lý đối với một số tội phạm về tham nhũng trong mọi tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước (Bộ luật Hình sự đã mở rộng chủ thể phạm tội gồm cả người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước đối với các tội danh: Tội tham ô tài sản (Điều 353), Tội nhận hối lộ (Điều 354), Tội đưa hối lộ (Điều 364) và Tội môi giới hối lộ (Điều 365)); phù hợp với yêu cầu của Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên...

Luật PCTN 2018 đã khắc phục những bất cập đã được nhận diện trong quá trình tổng kết việc thực hiện Luật PCTN 2005, như: quy định một cách đầy đủ, toàn diện về kiểm soát xung đột lợi ích đối với cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ; quy định cơ chế giám sát, tiếp nhận, xử lý thông tin, phản ánh vi phạm về nhận, tặng quà; quy định cụ thể về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập trên cơ sở phát triển và hoàn thiện cơ chế kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập của Luật PCTN 2005. Trong đó quy định cụ thể về xác minh tài sản, thu nhập như một công cụ then chốt nhằm nâng cao hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập; nhấn mạnh trường hợp xác minh tài sản, thu nhập hằng năm đối với người có nghĩa vụ kê khai được lựa chọn ngẫu nhiên; quy định về cơ chế phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, đặc biệt là cơ chế phối hợp giữa cơ quan thanh tra, kiểm toán với cơ quan điều tra trong phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng; phát huy vai trò của mỗi cơ quan trong xử lý vụ việc có dấu hiệu tham nhũng; hoàn thiện quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi tham nhũng, quy định cụ thể các biện pháp bảo vệ người tố cáo, khen thưởng người có thành tích trong tố cáo tham nhũng; mở rộng PCTN ra khu vực ngoài nhà nước.

Bên cạnh đó, Luật PCTN và các văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với Hiến pháp 2013, quy định của các văn bản pháp luật khác có liên quan và bảo đảm thời gian, chất lượng; tiếp tục có những bước đi phù hợp nhằm nâng cao mức độ tuân thủ các yêu cầu của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, qua đó góp phần tạo tiền đề tốt cho Việt Nam trong Chu trình đánh giá lần hai về việc thực thi Công ước đối với Chương II về các biện pháp phòng ngừa và Chương V về thu hồi tài sản.

b) Quy định tội phạm tham nhũng tại Bộ luật Hình sự đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng

Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định tội phạm tham nhũng bao gồm 07 tội, gồm: Tội tham ô tài sản (Điều 353); Tội nhận hối lộ (Điều 354); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356); Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 357); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358); Tội giả mạo trong công tác (Điều 359). Các hành vi này có sự tương đồng với các hành vi tham nhũng quy định tại Luật PCTN 2018.

Luật PCTN 2018 xác định 12 hành vi tham nhũng trong khu vực công và 03 hành vi tham nhũng khu vực ngoài nhà nước. Điều này rộng hơn so với các quy định về tội phạm tham nhũng được xác định trong Bộ luật Hình sự 2015, thể hiện việc hình sự hóa một số hành vi tham nhũng là chưa cần thiết hoặc có thể là sự chưa đồng bộ của hệ thống pháp luật về PCTN. Bộ luật Hình sự 2015 xác định hành vi “đưa hối lộ, môi giới đưa hối lộ” là tội phạm khác về chức vụ (không phải tội phạm tham nhũng), trong khi đó Luật PCTN xác định đây là hành vi tham nhũng. Luật PCTN 2018 xác định hành vi “không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi” là hành vi tham nhũng nhưng Bộ luật Hình sự năm 2015 xác định hành vi “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” (có nội hàm tương tự) là tội về chức vụ khác. Việc này có thể do nguyên nhân Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định những tội phạm tham nhũng được xác định theo các hành vi tham nhũng trong Luật PCTN năm 2005.

Một số hành vi tham nhũng trong Luật PCTN 2018 chưa được hình sự hóa, gồm: (i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi; (ii) Nhũng nhiễu vì vụ lợi; (iii) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.

c) Xây dựng cơ chế bảo vệ người tố cáo, báo cáo hành vi tham nhũng với những quy định cụ thể, đồng bộ, khả thi

Bảo vệ người tố cáo, tố giác, phát hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực bao gồm nhiều biện pháp pháp lý, được quy định trong nhiều văn bản như Luật Tố cáo, Luật PCTN và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các quy định này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, đồng bộ để người dân thực hiện quyền tố cáo, tố giác các hành vi vi phạm và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thực hiện giải quyết tố cáo, bảo vệ người tố cáo theo quy định. Đây là một chế định quan trọng trong thể chế về PCTN.

2-1733975592.png

Luật Tố cáo quy định tại Chương V về bảo vệ người tố cáo và một số điều quy định mang tính nguyên tắc về trách nhiệm bảo vệ người tố cáo. Luật PCTN quy định nhiều nội dung liên quan đến việc tố cáo, tố giác hành vi tham nhũng và bảo vệ người tố cáo, tố giác hành vi tham nhũng, …

Luật PCTN 2018 cũng quy định nghiêm cấm hành vi đe dọa, trả thù, trù dập, tiết lộ thông tin về người phản ánh, báo cáo, tố cáo, tố giác, báo tin, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng; lợi dụng việc phản ánh, báo cáo, tố cáo, tố giác, báo tin, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng để vu khống cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác… Luật PCTN 2018 dành mục 3 Chương III quy định về phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng. …

Luật PCTN 2018 quy định mang tính nguyên tắc về bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng, tiêu cực: Việc bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo. Người phản ánh, báo cáo về hành vi tham nhũng được áp dụng các biện pháp bảo vệ như bảo vệ người tố cáo. Quy định này chỉ xác định việc bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng, tiêu cực mà không xác định việc bảo vệ người phản ánh, kiến nghị, phát hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực. Do đó đây có thể là một khoảng trống pháp lý gây khó khăn khi áp dụng pháp luật để bảo vệ người phản ánh, kiến nghị, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực.

Luật Tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định cụ thể về người được bảo vệ bao gồm: người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo. Đồng thời xác định rõ phạm vi bảo vệ gồm: bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo, bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ.

Để cụ thể hóa các nội dung này, Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan đã ban hành các văn bản hướng dẫn và quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục và các biện pháp bảo vệ người tố cáo.

Để hướng dẫn cụ thể về việc bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo, bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo, Thanh tra Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công an đã ban hành các Thông tư quy định chi tiết về các nội dung này.

Đáng chú ý, ngày 29/12/2020, Bộ trưởng Bộ Công an ký ban hành Thông tư số 145/2020/TT-BCA quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục, biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo về hành vi tham nhũng, lãng phí. Thông tư quy định cụ thể trách nhiệm thực hiện việc bảo vệ người được bảo vệ của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan như cơ quan Công an, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo… Trình tự, thủ tục bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo về hành vi tham nhũng, lãng phí thực hiện theo quy định tại Mục 2 Chương VI Luật Tố cáo. Căn cứ tình hình thực tế, cơ quan Công an cấp có thẩm quyền có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ theo quy định tại Điều 58 Luật Tố cáo.

d) Ban hành Chiến lược quốc gia PCTN, tiêu cực đến năm 2030 (kèm theo Nghị quyết 168/NQ-CP ngày 11/10/2023 của Chính phủ)

Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020, Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia PCTN, tiêu cực đến năm 2030 trên cơ sở nhận định “Tham nhũng, tiêu cực còn diễn ra nghiêm trọng, phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là tổ chức cán bộ; quản lý tài chính, ngân sách, tài sản công, quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, đầu tư, xây dựng, đấu thầu, đấu giá; đất đai, tài nguyên, khoáng sản; tín dụng, ngân hàng; thuế, hải quan và các lĩnh vực thực thi pháp luật liên quan trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế, bất cập; việc thực thi pháp luật chưa nghiêm, kết quả phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực chưa đủ sức răn đe; tổ chức bộ máy còn chồng chéo, chưa tinh gọn, hoạt động chưa hiệu quả; một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; sự tham gia của xã hội trong PCTN, tiêu cực còn hạn chế. Bước vào giai đoạn phát triển mới, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tham nhũng sẽ diễn biến phức tạp, tinh vi. Công cuộc PCTN, tiêu cực đứng trước những khó khăn, thách thức mới…”. Chiến lược là định hướng quan trọng nhằm hoàn thiện thể chế về PCTN từ nay đến năm 2030 với những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể.

Chiến lược đề ra 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp gồm: 1- Hoàn thiện chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực quản lý kinh tế - xã hội và PCTN, tiêu cực; 2- Kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước, hoàn thiện chế độ công vụ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức liêm chính; nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật; 3- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; 4- Nâng cao nhận thức, phát huy vai trò và trách nhiệm của xã hội trong PCTN, tiêu cực; 5- Tích cực tham gia, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về PCTN, thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng.

đ) Hoàn thiện các quy định khác có liên quan

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế về PCTN, tiêu cực luôn được Quốc hội, Chính phủ quan tâm, chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng về quản lý kinh tế - xã hội và PCTN, tiêu cực; tập trung xử lý những sơ hở, bất cập, mâu thuẫn, vướng mắc trong các văn bản quy phạm pháp luật đã được chỉ ra qua kết quả chỉ đạo rà soát của Đảng đoàn Quốc hội, Kết luận kiểm tra của Ban Chỉ đạo về công tác thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng về PCTN, tiêu cực thành pháp luật của Nhà nước và các nội dung cụ thể mà các đoàn kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã kiến nghị, đề xuất; chỉ đạo sơ kết 05 năm thực hiện Luật PCTN 2018. Chính phủ trình Quốc hội thông qua 18 Luật, trong đó có nhiều Luật liên quan trực tiếp đến việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, quản lý nhà nước trên các lĩnh vực để hạn chế tham nhũng, tiêu cực như Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản, Luật Đất đai 2024, Luật Căn cước, Luật Các tổ chức tín dụng 2024... Chính phủ ban hành 152 Nghị định, 237 Nghị quyết; Thủ tướng Chính phủ ban hành 23 Quyết định; các bộ, ngành, địa phương ban hành 36.154 văn bản, sửa đổi, bổ sung 2.561 văn bản, bãi bỏ 226 văn bản để cụ thể hoá, hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội và PCTNTC, góp phần tạo lập hành lang pháp lý ổn định, đồng bộ, chặt chẽ, thống nhất, khả thi, minh bạch, hạn chế tham nhũng, tiêu cực.

3. Những “thách thức” về thể chế PCTN trong thời gian tới

Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Tham nhũng, lãng phí ở một số nơi còn nghiêm trọng” và đặt ra yêu cầu “Triển khai đồng bộ, có hiệu quả quy định của pháp luật về PCTN. Nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng, bảo đảm đúng pháp luật. Thực hiện quyết liệt, nghiêm minh có hiệu quả cuộc đấu tranh PCTN. Khẩn trương xây dựng cơ chế phòng ngừa , cơ chế răn đe để kiểm soát tham nhũng…. Tiếp tục thực hiện chặt chẽ, hiệu quả về kê khai, kiểm soát kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp”. Nghị quyết số 27 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 13 xác định một trong các mục tiêu và giải pháp quan trọng là “xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, mở không gian cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững”.

a) Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về PCTN nói riêng và chính sách, pháp luật trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội nói chung, trước hết là những ngành, lĩnh vực, những khâu nhạy cảm dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực. Luôn thực hiện rà soát, tổng kết, đánh giá, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật để ngày càng hoàn thiện, kịp thời khắc phục những hạn chế, bất cập, bịt kín những khoảng trống, kẽ hở dễ làm nảy sinh tham nhũng, tiêu cực. Thiết lập cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể tham nhũng", cơ chế phát hiện, xử lý hiệu quả để “không dám tham nhũng” và cơ chế bảo đảm, đãi ngộ hợp lý để “không cần, không muốn tham nhũng”.

1-1733975579.png

b) Triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia về PCTN, tiêu cực đến năm 2030, trong đó có nhóm giải pháp thứ nhất về hoàn thiện chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực quản lý kinh tế - xã hội và PCTN, tiêu cực. Các nhiệm vụ cụ thể về hoàn thiện khuôn khổ thể chế, chính sách nhằm PCTN, tiêu cực được quy định cụ thể tại Kế hoạch thực hiện, với việc nghiên cứu, sửa đổi các Luật cụ thể, quy định cụ thể cơ quan chủ trì, phối hợp và thời điểm hoàn thành. Việc thực hiện các nhiệm vụ theo Kế hoạch này bảo đảm chất lượng, tiến độ thực sự là thách thức trong công tác thể chế về PCTN trong thời gian tới.

c) Nhận diện những bất cập, hạn chế của Luật PCTN 2018 và các văn bản hướng dẫn thi hành trên cơ sở sơ kết 05 năm thực hiện. Trước mắt, tập trung nghiên cứu, hoàn thiện một số nội dung như: Quy định cụ thể phương thức xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; căn cứ cụ thể để đánh giá, kết luận về việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, không giải trình trung thực về nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm; đẩy nhanh việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập; quy định chế tài xử lý đối với tài sản, thu nhập không giải trình được nguồn gốc. Đây thực sự là một nội dung quan trọng nhằm bảo đảm cho việc xác minh tài sản, thu nhập được thực hiện hiệu quả (hiện nay mới chỉ xử lý được người có hành vi kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, không giải trình được về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm mà chưa xử lý được tài sản không giải trình được nguồn gốc hợp pháp.

d) Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung quy định về các tội phạm tham nhũng trong Bộ luật Hình sự 2015 dựa trên cơ sở quy định của Luật PCTN 2018. Theo đó, cần cân nhắc quy định hành vi “đưa hối lộ, môi giới đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi” và hành vi “không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi” là tội phạm tham nhũng (mà không phải thuộc nhóm tội khác về chức vụ như hiện nay). Bên cạnh đó, tiếp tục nghiên cứu để hình sự hóa một số hành vi tham nhũng đã được xác định trong Luật PCTN như: (i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi; (ii) Nhũng nhiễu vì vụ lợi; (iii) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.

đ) Tiếp tục nghiên cứu nhằm làm rõ cơ sở pháp lý và thực tiễn của việc thực hiện Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, trong đó có các quy định về bảo lưu và tuyên bố không ràng buộc bởi một số quy định. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước, đồng thời bảo lưu khoản 2, Điều 66 của Công ước (về phương thức giải quyết tranh chấp trong giải thích và áp dụng Công ước giữa các thành viên) và tuyên bố không bị ràng buộc bởi quy định về hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp (Điều 20) và quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân (Điều 26); không áp dụng trực tiếp các quy định của Công ước và không coi Công ước là cơ sở pháp lý trực tiếp về dẫn độ. Việc tiếp tục nghiên cứu, làm rõ các nội dung này có vai trò quan trọng trong việc tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ thể chế về PCTN trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay./.

TS. Trần Văn Long (Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ)

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin