(Pháp lý)- Ngân hàng vẫn phải chịu trách nhiệm, không thể phủi tay được – đó là ý kiến chung của tất cả các chuyên gia pháp luật khi trả lời trên báo chí xung quanh vụ việc trên. Các chuyên gia còn chỉ ra những lỗ hổng trong quản trị ngân hàng dù các quy định pháp luật đã có đủ. Đặc biệt, qua vụ việc, một số chuyên gia đã đưa ra những khuyến cáo đối với ngành ngân hàng và người gửi tiền.
Tóm tắt sự việc
Thông tin ban đầu trên báo chí cho biết, lợi dụng lòng tin của khách hàng, ông Lê Nguyên Hưng Phó Gám đốc (PGĐ) Eximbank - Chi nhánh TP HCM đã làm giả hồ sơ để chiếm đoạt 245 tỷ đồng tiền gửi tiết kiệm của bà Bình. Theo bà Bình, từ năm 2007, bà bắt đầu giao dịch gửi tiết kiệm tại chi nhánh TP HCM của Eximbank. Do bà Bình gửi số tiền khá lớn nên được nhà băng này chăm sóc theo tiêu chuẩn khách hàng VIP. Ông Lê Nguyên Hưng, PGĐ chi nhánh này là người trực tiếp thực hiện các giao dịch với bà Bình. Lợi dụng sự tin tưởng của bà Bình, ông Hưng nhiều lần cùng nhân viên của Eximbank đến nhà riêng của bà Bình để trình bày những khoản đã tất toán dựa theo kỳ hạn gửi. Nhưng thực tế ông Hưng đã làm giả hồ sơ của bà Bình để rút tiền từ tài khoản chưa đến hạn tất toán của bà rồi gửi vào tài khoản đã đến hạn tất toán. Với "chiêu thức" trên, ông Hưng chiếm đoạt số tiền rất lớn của bà Bình trong một thời gian dài. Cuối năm 2017, nghi ngờ mình bị lừa đảo, bà Bình tiến hành đối chiếu số dư sổ tiết kiệm thì phát hiện hơn 245 tỷ trong các tài khoản đã "bốc hơi".
Những phân tích pháp lý xác đáng
Phân tích tính chất pháp lý của vụ việc với Phóng viên Pháp lý, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, khoa Tài chính Quốc tế - Học viện Tài chính khẳng định: “Bất kể vì lý do gì, ngân hàng Eximbank vẫn phải là người chịu trách nhiệm. Vì ông PGĐ là đại diện cho ngân hàng thì ngân hàng phải chịu trách nhiệm. Còn việc xử lý giữa ngân hàng với ông PGĐ như thế nào là chuyện của ngân hàng. Hơn nữa, trong quá trình rút tiền nếu không có đầy đủ thủ tục, không có đầy đủ chữ ký, con dấu thì không ai cho rút tiền. Ở vụ việc này, mặc dù bà Bình có ký khống một số giấy tờ, nhưng nếu không có sự thông đồng, tiếp tay của những cán bộ, nhân viên khác trong cùng ngân hàng, ông Hưng không thể nào rút tiền được. Do đó, cơ quan điều tra cần phải điều tra lại quá trình “bốc hơi” tiền của bà Bình”.
Xét về mặt hình sự, PGS.TS Thịnh phân tích, ở vụ việc này có dấu hiệu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thậm chí có dấu hiệu tội tham ô tài sản, tội tham nhũng. Vì bản thân ông PGĐ là người quản lý tiền của ngân hàng, ông tìm cách lấy tiền thì là tham ô tài sản. Bên cạnh đó, có thể xem xét cả tội lợi dụng chức vụ quyền hạn gây hậu quả nghiêm trọng, do ông lấy số tiền rất lớn, ảnh hưởng đến uy tín rất lớn của ngân hàng và ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng nói chung. Trong trường hợp không bắt được ông PGĐ, ngân hàng có thu được số tiền đã mất hay không, vẫn phải quy trách nhiệm cho Eximbank. Vì khách hàng đã gửi tiền vào ngân hàng rồi, mọi giao dịch đều có giấy tờ, con dấu đầy đủ.
Nhìn nhận vụ việc ở khía cạnh dân sự - kinh tế, Luật sư Trương Thanh Đức – Chủ tịch HĐTV Công ty Luật Basico cho rằng: “Nếu hai bên thỏa thuận được số tiền đền bù thì thực hiện ngay, nếu không thỏa thuận được thì phải ra tòa chờ phán quyết của tòa. Cái khó ở đây là nếu ngân hàng trả, nhưng khi bắt được ông PGĐ, giả sử ông ấy bảo không lấy thì làm thế nào? Giả sử giờ ngân hàng đền 245 tỷ, nhưng khi bắt được ông PGĐ, ông khai chỉ lấy 45 tỷ thì ngân hàng sẽ đền thừa? Trong trường hợp không bắt được ông PGĐ, ngân hàng cũng phải cam kết một thời hạn nào đó để đền bù tiền cho khách hàng.
Luật sư Đức phân tích sâu hơn và dẫn chiếu vụ việc với các quy định của ngành ngân hàng. Theo quy định của pháp luật, trong đó có quy định về tiền gửi tiết kiệm tại khoản 2, Điều 15 về “Rút gốc và lãi tiền gửi tiết kiệm”, Quy chế tiền gửi tiết kiệm, ban hành kèm theo Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/9/2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, thì ngân hàng phải “đảm bảo việc chi trả tiền gửi tiết kiệm chính xác và an toàn”. Cụ thể là ngân hàng phải bảo đảm ít nhất 4 yếu tố hợp lệ, khớp đúng là chủ thẻ tiết kiệm, chữ ký của chủ thẻ, thẻ tiết kiệm và giấy tờ tùy thân của người rút tiền, đặc biệt là với các khoản tiền lớn hàng tỷ đồng trở lên. Vì vậy, kẻ gian dù có trong tay cả thẻ tiết kiệm và chứng minh nhân dân của khách hàng cũng không thể rút được tiền gửi nếu ngân hàng không làm sai các quy định trên.
Trường hợp rút tiền theo uỷ quyền, ngân hàng cũng phải xác định được chính xác và chắn chắn là ai lĩnh tiền thì mới được phép chi trả. Nếu sau này có gian lận, sai sót, nhầm lẫn cũng dễ dàng truy tìm và truy cứu trách nhiệm. Ngân hàng chi tiền mà không phát hiện ra giấy ủy quyền (có công chứng, chứng thực hoặc do chính ngân hàng xác nhận) giả mạo cũng vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường cho khách hàng. Ngay cả trường hợp người được ủy quyền rút tiền hợp pháp, hợp lệ nhưng lại chính là cán bộ, nhân viên ngân hàng có nhiệm vụ giao dịch tiền gửi của khách hàng, vẫn phải xác định là lỗi của chính ngân hàng. Nếu các cán bộ ngân hàng liên quan đến tiền gửi và giao dịch của khách hàng đều làm đúng nguyên tắc, quy trình trong tất cả các công đoạn, rất khó có thể xảy ra việc mất tiền hoặc dù có mất tiền thì cũng sẽ không có nhân viên nào phạm pháp. Tuy nhiên, ngay cả khi đó cũng không đồng nghĩa với việc ngân hàng không có lỗi. Do vậy, có thế nói có đến 99% các vụ việc mất tiền gửi, Ngân hàng phải chịu trách nhiệm bồi thường, cho dù khách hàng có thể có một số sơ hở, thiếu sót. Vì nguyên nhân chính yếu dẫn đến mất tiền thường là do lỗi và sai phạm của chính các cán bộ, nhân viên ngân hàng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao là huy động vốn của khách hàng gửi tiền. Điều 87 về “Trách nhiệm dân sự của pháp nhân”, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định, pháp nhân phải chịu hoàn toàn trách nhiệm dân sự do người của pháp nhân xác lập, thực hiện. Điều này cũng tương tự trong lĩnh vực hành chính, đó là Nhà nước phải bồi thường theo Luật Bồi thường của Nhà nước năm 2017 khi cán bộ, công chức làm sai, sau đó mới xử lý trách nhiệm của cá nhân.
Luật sư Đức phân tích thêm: việc mất tiền của khách hàng gửi tiền ở ngân hàng thực chất chính ngân hàng mới là người bị mất tiền, vì theo quy định tại Điều 464 về “Quyền sở hữu đối với tài sản vay”, Bộ luật Dân sự năm 2015, tiền khách hàng đã gửi vào ngân hàng là thuộc sở hữu của ngân hàng. Tội phạm gian lận, lừa đảo, tham ô, chiếm đoạt tiền của ngân hàng sở hữu hay quản lý thì cũng đều phải chịu trách nhiệm với ngân hàng. Trong vụ việc này, vì tội phạm là những người có nhiệm vụ, quyền hạn ở ngân hàng, liên quan trực tiếp đến giao dịch của khách hàng nên mới bị hiểu một cách lệch lạc là chiếm đoạt tiền của khách hàng. Như vậy, việc ngân hàng đẩy trách nhiệm bồi thường cho cá nhân không phải là lỗi từ quy định của Ngân hàng Nhà nước hay của pháp luật, mà là do việc cố tình hiểu nhầm lẫn bản chất của vấn đề, sai lầm về nguyên lý phân định trách nhiệm và việc áp dụng không đúng quy định pháp luật.
Trao đổi trên báo Dân trí, Luật sư Nguyễn Kiều Hưng, Giám đốc Hãng luật Giải Phóng (Đoàn Luật sư TP.HCM) phân tích: gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng là một giao dịch dân sự đặc biệt, bởi giao dịch này không chỉ tuân thủ Bộ luật dân sự mà còn phải tuân thủ pháp luật về ngành ngân hàng.
Chủ thể tham gia giao dịch này một bên là tổ chức, cá nhân và một bên là tổ chức tín dụng (ngân hàng là một trong những hình thức). Mọi tranh chấp, dù có yếu tố hình sự hay không, người đại diện theo pháp luật của ngân hàng phải đứng ra giải quyết, thực thi các quyền và nghĩa vụ của pháp nhân ngân hàng. Không một cá nhân nào có thể thay thế, kế thừa quyền và nghĩa vụ của ngân hàng.
Về mặt lỗi, quy trình tín dụng, gửi - rút tiền tuân thủ các quy định kiểm soát khắt khe, chặt chẽ của ngân hàng nhà nước và nội bộ từng ngân hàng ban hành. Một cá nhân làm việc tại ngân hàng không thể tự mình rút tiền của khách hàng ra khỏi ngân hàng được, trừ phi khâu kiểm soát của ngân hàng đó bị tê liệt và bị vô hiệu hóa.
Theo nguyên tắc đó, ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền cho dù bất cứ lý do gì, bởi người gửi tiền chỉ tin tưởng và gửi tiền cho ngân hàng chứ không phải với bất cứ cá nhân nào làm việc tại ngân hàng. Tiền khi gửi vào ngân hàng thì hòa vào dòng tiền vốn của ngân hàng, ngân hàng có nghĩa vụ quản lý và bảo toàn tiền gửi của khách hàng. Nếu mất mát, thất thoát thì phải bồi thường.
Vì vậy lý do, chờ một bản án hình sự trong vụ việc này mới biết trách nhiệm bồi thường của ngân hàng có hay không là không thỏa đáng. Trong vụ việc này tồn tại hai quan hệ, một là giao dịch dân sự giữa khách hàng và ngân hàng, hai là quan hệ hình sự.
Với vụ án hình sự, cần xác định ngân hàng là người bị hại, vì bị nhân viên lợi dụng khe hở để chiếm đoạt tiền của khách hàng. Khách hàng chỉ biết và được bảo đảm tài sản bởi ngân hàng nên không thể chờ kết quả từ vụ án hình sự mới được giải quyết quyền lợi được.
Tóm lại, trách nhiệm bồi thường phải thuộc về ngân hàng. Ngân hàng phải có trách nhiệm bồi thường ngay lập tức và không điều kiện đối với các khoản tiền bị thất thoát do khách hàng gửi tại ngân hàng của mình.
Trên báo Thanh niên, Luật sư Nguyễn Thành Công (Đoàn Luật sư TP.HCM) nêu quan điểm: trong vụ việc xảy ra tại Eximbank xác định bị hại là khâu mấu chốt của vụ án.
Cụ thể, Luật sư Công phân tích: “Thứ nhất, khách hàng đã thực hiện đầy đủ thủ tục để gửi tiền theo quy định của ngân hàng. Dù khách hàng có nhận hay không nhận sổ tiền gửi tiết kiệm thì vẫn đủ cơ sở để xác định đã phát sinh giao dịch giữa khách hàng với NH trong quan hệ gửi - nhận tiền theo hình thức gửi tiền tiết kiệm. Lúc đó tiền bị mất trong các sổ, tài khoản của khách hàng là lỗi do ngân hàng, tức ngân hàng sơ suất mà bị chiếm đoạt. Lúc này ngân hàng là bị hại và ngân hàng phải trả lại tiền mà khách hàng bị chiếm đoạt”, Luật sư Công nhấn mạnh.
Luật sư Công phân tích tình huống thứ hai, khách hàng có mong muốn gửi tiền tiết kiệm nhưng không hoặc thực hiện ít hơn các thủ tục quy định mà tin tưởng vào nhân viên của ngân hàng mà thực hiện và ký hoặc không ký các chứng từ giấy tờ theo quy định trong quy trình mở sổ tiết kiệm. Lợi dụng việc này, nhân viên ngân hàng thực hiện thêm các thủ tục giả mạo chữ ký của khách hàng để gửi tiền vào và rút ra nhằm chiếm đoạt thì tùy vào giấy tờ, thủ tục khách hàng thực hiện đến đâu mà xác định ngân hàng hay khách hàng là bị hại.
Thứ ba, lại có trường hợp khách hàng đã ký các thủ tục giấy tờ nhưng lại tiếp tục ký thêm giấy ủy quyền khống, nhân viên ngân hàng lợi dụng ghi vào nội dung được quyền rút tiền. Nhân viên ngân hàng đã rút tiền và chiếm giữ số tiền này thì nhiều khả năng đây là quan hệ dân sự. Sự gian dối của nhân viên ngân hàng trong trường hợp này sẽ được họ giải thích là đã được sự đồng ý của khách hàng. Đây là trường hợp khá hy hữu nhưng không phải không xảy ra.
“Như vậy để xác định ai là bị hại và trách nhiệm của ngân hàng đến đâu thì phải căn cứ vào chứng từ giấy tờ đang lưu giữ tại ngân hàng không phải mọi trường hợp đều xác định là lỗi của ngân hàng hay lỗi của khách hàng”, Luật sư Công phân tích.
Quản trị tiền gửi lỏng lẻo và khủng hoảng chữ ký khống ở ngân hàng
Theo kết luận điều tra, toàn bộ giấy ủy quyền mà ông Lê Nguyên Hưng dùng để rút tiền đều có chữ ký của bà Chu Thị Bình. Ban đầu, các giấy tờ này được ký khống và để trống tên người được ủy quyền, tạo điều kiện cho ông Hưng điền tên người khác vào để thực hiện hành vi rút tiền của bà Bình.
Các chuyên gia tài chính cho rằng Ngân hàng Nhà nước cần vào cuộc thanh tra, nhằm siết lại quy trình và kỷ luật, quản trị tiền gửi tại các ngân hàng.
Theo ý kiến của các chuyên gia tài chính, phải thừa nhận nhiều trường hợp người gửi tiền có lỗi khi thiếu cẩn trọng trong việc ký vào những chứng từ mà nhân viên ngân hàng đưa cho. Những tờ giấy có chữ ký khống của người gửi tiền này sau đó đã được sử dụng trong việc chiếm đoạt tiền của chính người gửi. Nhưng không thể phủ nhận trách nhiệm của ngân hàng. Ngân hàng phải kiểm soát việc rút tiền qua nhiều quy trình, nhiều bậc, nhằm đảm bảo người rút tiền là 'chính chủ' hay không. Nếu theo đúng quy trình khắt khe của hoạt động ngân hàng thì không dễ gì tiền bị thất thoát. Chỉ có sự lỏng lẻo hoặc có sự câu kết của nhân viên phụ trách mới dẫn đến khủng hoảng chữ ký ở ngân hàng như hiện nay.
Xung quanh vấn đề trên, trả lời trên báo Vietnam Finance, Luật sư, Tiến sĩ Bùi Quang Tín (Đoàn Luật sư TP.HCM) phân tích: hiện nay pháp luật không cấm các ngân hàng thực hiện thủ tục ủy quyền mang tính nội bộ. Theo đó, bên ủy quyền và bên được ủy quyền cùng ký vào giấy ủy quyền, lãnh đạo ngân hàng ký xác nhận ủy quyền, lập tức bên được ủy quyền được thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, theo Luật sư Tín, hiện nay quy trình kiểm soát các giao dịch gửi – rút tiền của ngân hàng hết sức thô sơ. Chẳng hạn, khi khách hàng đến phòng giao dịch của một ngân hàng để rút tiền thì chứng từ giao dịch thường thông qua một nhân viên giao dịch, một kiểm soát viên đã được tổng giám đốc ngân hàng đó ủy quyền việc chi trả tiền với một số lượng nhất định; tiếp đến nhân viên ngân quỹ kiểm tra chứng từ và thực hiện lệnh rút tiền của khách hàng.
“Nếu 3 người này thông đồng giả mạo chứng từ đề rút tiền của người khác thì việc này sẽ trót lọt. Đó là chưa kể tình huống cấp trên có thể thông đồng với cấp dưới thực hiện hành vi rút tiền gian dối. Nếu điều này diễn ra thì việc khách hàng bị mất tiền trong thời gian dài không bị phát hiện là dễ hiểu”, ông Tín đánh giá.
Chính vì vậy, để kiểm soát rủi ro, theo ông Tín, ngoài việc khuyến cáo khách hàng không ký khống giấy ủy quyền gửi - rút tiền cho người khác, các ngân hàng đã đến lúc phải đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin để kiểm soát thông qua số hóa quy trình giao dịch, nhằm hạn chế việc tiếp xúc giữa các nhân viên, giữa khách hàng với nhân viên trong quá trình giao dịch. Như thế, hệ thống điện tử của ngân hàng sẽ kiểm soát được từng giao dịch theo từng giấy ủy quyền; gắn liền với các thông tin về thời điểm, số tiền, hành vi, mục đích… của nhân viên sử dụng giấy ủy quyền”, ông Tín đề xuất.
Luật sư Trương Thanh Đức: Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì phải chịu trách nhiệm về mọi tổn thất gây ra với người gửi tiền
Chỉ ra những nguyên nhân việc tiền gửi của khách hàng ở ngân hàng Eximbank nói riêng và ở nhiều ngân ngân hàng khác nói chung thời gian gần đây liên tục bị “bốc hơi”, Luật sư Trương Thanh Đức – Chủ tịch HĐTV Công ty Luật Basico cho rằng: Chính việc “phủi tay” cùng việc đùn đẩy trách nhiệm từ pháp nhân sang cá nhân của các ngân hàng, là tác nhân nguy hiểm dẫn đến hàng trăm vụ rút ruột, lừa đảo, biển thủ, chiếm đoạt tiền tại ngân hàng. Các tổ chức tín dụng nói chung, ngân hàng thương mại nói riêng tồn tại và phát triển được vì là nơi gửi tiền và đầu tư vốn an toàn ở cấp độ cao nhất. Nếu dân chúng không tin rằng đó là nơi gửi tiền an toàn hơn để ở nhà mình, làm sao ngân hàng có thể huy động được hàng tỷ USD lãi suất bằng 0%?. Ngân hàng làm dịch vụ bảo quản tài sản, giữ nguyên trạng hay huy động tiền gửi của khách hàng để quay vòng vốn kinh doanh, mà bản chất là vay tiền, cũng đều có trách nhiệm giống nhau là bảo đảm an toàn tiền bạc và trả lại nguyên vẹn cho người gửi. Nếu vì bất kỳ lý do nào đó mà ngân hàng không chi trả đầy đủ, kịp thời, thì tranh chấp xuất hiện. Nếu vẫn không thương lượng, hòa giải được nữa, cách thức giải quyết đúng luật chỉ còn là yêu cầu cơ quan tài phán phân xử. Đối với tranh chấp về việc gửi tiền tiết kiệm thì buộc phải đưa ra Tòa án xét xử theo trình tự tố tụng dân sự. Nếu có dấu hiệu tội phạm hình sự, bắt buộc phải qua điều tra của cơ quan Công an, truy tố của Viện kiểm sát và xét xử theo thủ tục hình sự. Một vụ án như vậy, nhanh thì cũng trên dưới 1 năm, còn chậm cũng vài ba năm. Tuy nhiên, nếu tòa án cứ tuyên ngân hàng không phải chịu trách nhiệm, giống như đã xét xử với vụ án siêu lừa Huyền Như và một số vụ án khác, người gửi tiền sẽ đứng trước nguy cơ mất trắng cả tiền gốc lẫn lãi. Khách hàng mất tiền chờ kết quả xét xử trong trường hợp này cũng vô vọng chẳng khác gì chờ kết cục cái chết đã định trước. Rủi ro có thể mất tiền gửi tại ngân hàng bất cứ lúc nào không đáng sợ bằng nguy cơ khách hàng chỉ có quyền đòi lại tiền gửi của mình từ tội phạm.
Theo Luật sư Đức, các quy định pháp luật về các tổ chức tín dụng chuẩn lắm rồi, mấu chốt để ngăn chặn tình trạng mất tiền là phải quy được trách nhiệm bồi thường khách hàng cho pháp nhân ngân hàng thay vì trách nhiệm của các cá nhân sai phạm. Nếu ngân hàng phải chịu trách nhiệm trong mọi mất mát của khách hàng thì sẽ buộc họ phải bằng mọi cách nâng cao yêu cầu an toàn, thắt chặt các quy trình kiểm soát, chấn chỉnh kỷ luật nội bộ, giảm thiểu rủi ro, sai phạm. Ngân hàng chỉ có thể bảo đảm an toàn cao nhất tiền gửi của khách hàng, nếu như họ phải chịu trách nhiệm về mọi tổn thất do chính nhân viên của họ gây ra, nếu như họ không còn đùn đẩy, giải thoát trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Chỉ có như vậy mới mong chặn đứng hay ít nhất cũng là giảm thiểu các vụ việc bỗng dưng mất tiền có nguy cơ dày hơn, nhiều hơn, lớn hơn.
Lừa đảo 245 tỉ đồng ở Eximbank: Giống và khác gì vụ án Huyền Như?
Trao đổi với Thanh Niên, Luật sư Nguyễn Thành Công (thuộc Đoàn Luật sư TP.HCM) phân tích, vụ án này có điểm giống và khác nhau với vụ Huyền Như. Cụ thể, giống là cùng quan hệ giữa cá nhân gửi tiền với ngân hàng (NH) rồi bị nhân viên của NH dùng thủ thuật gian dối lừa đảo và chiếm đoạt tiền gửi. “Còn khác cơ bản là trong trường hợp này, cá nhân gửi tiền thực hiện theo hình thức khách hàng đặc biệt - VIP nên bỏ qua nhiều thủ tục của NH trong việc gửi tiền theo sổ tiết kiệm tạo điều kiện cho cán bộ ngân hàng chiếm đoạt tiền. Ai là bị hại trong vụ án này trở thành vấn đề mấu chốt cần làm rõ”, Luật sư Công nêu quan điểm. Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật. (Điều 597 Bộ luật Dân sự 2015) Nguyên tắc tối quan trọng để tiền gửi trong ngân hàng không “bốc hơi” 1. Thứ nhất là phải gửi tiền trực tiếp tại quầy. 2. Tuyệt đối không nên ký sẵn (ký khống) chứng từ: Khi làm thủ tục gửi tiền hoặc rút, chuyển tiền, trong bất cứ trường hợp nào thì khách hàng cũng không được ký vào các tờ giấy trắng. Tại vì, tất cả các mẫu giấy tờ giao dịch về gửi và rút hay chuyển tiền của ngân hàng đều có nội dung rõ ràng và nhân viên nhà băng phải tuân thủ theo đúng quy trình của ngân hàng để giao dịch với khách. Hơn nữa, với các mẫu giấy trắng đã có chữ ký của khách hàng, nhân viên ngân hàng vẫn có thể điền thông tin vào đó nhằm rút tiền của khách hàng theo nhiều cách khác nhau và thậm chí tin nhắn rút tiền cũng không được gửi đến số điện thoại mà khách hàng đã đăng ký, vì có thể đã có sự thông đồng tại các bộ phận khác nhau. 3. Phải kiểm tra số dư tài khoản tiền gửi định kỳ. 4. Bảo quản sổ tiết kiệm cẩn thận. 5. Kiểm tra chi tiết nội dung trên sổ tiết kiệm hay hợp đồng tiền gửi. 6. Cố gắng duy trì một chữ ký cố định. 7. Cẩn trọng khi giao dịch trực tuyến. |
Nguyễn Hòa (thực hiện và tổng hợp)