Tham gia các Định chế Tài chính Quốc tế để tăng cường hiệu quả các dự án đầu tư tư nhân

TÓM TẮT:
 
Các chương trình tài trợ cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa kết hợp ba lĩnh vực ưu tiên của định chế tài chính quốc tế: phát triển khu vực tư nhân, thúc đẩy khả năng tiếp cận tài chính và tăng trưởng Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tổng số vốn mà các định chế tài chính quốc tế cam kết cho các Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các nước đang phát triển rất khó ước tính vì không có dữ liệu cho mọi cá nhân trong danh mục đầu tư Doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh việc cung cấp vốn, các định chế tài chính quốc tế đã đầu tư đáng kể vào các hoạt động và chương trình liên quan đến tư vấn chính sách, hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực. Có khả năng sự tham gia của các định chế tài chính quốc tế trong không gian Doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng hơn nữa trong những năm tới.
 
Sự quan tâm của cộng đồng toàn cầu đối với các DNNVV (Doanh nghiệp nhỏ và vừa)  không có dấu hiệu giảm sút: họ đã có mặt trong chương trình nghị sự trong các cuộc họp G20 gần đây, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết phải “mở rộng các mô hình tài trợ thành công cho DNNVV”, đồng thời các nhà lãnh đạo chính phủ và các định chế tài chính quốc tế đã khởi động một cơ sở mới để hỗ trợ các mô hình tài trợ cho DNNVV (Doanh nghiệp nhỏ và vừa) sáng tạo.
 
Định chế tài chính quốc tế nhắm vào các rào cản hạn chế khả năng tiếp cận tài chính của các DNVVN, cung cấp hỗ trợ vốn và kỹ thuật để giải quyết các rào cản. Thông qua việc cung cấp vốn dài hạn và các sản phẩm ngoại hối phù hợp, chúng giúp tăng cường sự phù hợp giữa loại và cơ cấu tài sản với nợ phải trả cho các ngân hàng trung gian. Sự hỗ trợ của định chế tài chính quốc tế giúp vượt qua các rào cản về kỹ năng, thông tin và hỗ trợ quy định, cả thông qua kinh nghiệm thu được của các tổ chức trung gian trong việc cho vay lại vốn được cung cấp và thông qua các can thiệp giúp nâng cao năng lực. Cuối cùng, tổ chức giúp cải thiện môi trường cho vay rộng lớn hơn bằng cách hỗ trợ các khuôn khổ quy định và phát triển cơ sở hạ tầng cho vay tổng thể (ví dụ: hỗ trợ thành lập các cơ quan tín dụng). Các định chế tài chính quốc tế thường hoạt động tốt hơn các tổ chức nhà nước khác để hỗ trợ các DNNVV ở các nước đang phát triển.
 
GIỚI THIỆU:
 
Hiện nay, Việt Nam đã có gần 20 tỉnh, thành phố khởi động các đề án về thành phố thông minh. Đặc biệt việc phát triển thành phố thông minh là một chủ đề ngày càng thu hút được sự quan tâm của cả chính quyền các cấp và người dân. Cùng với xu thế phát triển chung của thế giới, Đảng và Chính phủ đã có một số chủ trương phát triển thành phố thông minh trong một số văn bản chính sau: 
 
- Nghị quyết số 18/NQ-TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XII về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. 

- Nghị quyết số 05/NQ-TW ngày 01/11/2016 Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về “Một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế” đã đề cập đến một nội dung “ưu tiên phát triển một số đô thị thông minh”; 

- Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về chính phủ điện tử. 

- Quyết định 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016 – 2020, trong đó yêu cầu: "Triển khai đô thị thông minh ít nhất tại 3 địa điểm theo các tiêu chí do Bộ Thông tin và Truyền thông hướng dẫn". 

- Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/05/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. 

- Thực hiện nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21/02/2017 nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế và Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08 tháng 11 năm 2016 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 
 
Bản thân sự tham gia của tư nhân có thể giúp mở rộng khả năng tiếp cận nếu có tiềm năng thu hồi vốn đầu tư mới. Ngay cả với giá cả bao gồm chi phí, các nhà cung cấp tư nhân có thể nỗ lực hơn trong việc mở ra thị trường mới. Khả năng tiếp cận vật lý với các dịch vụ nước, điện thoại, vệ sinh và điện đã thực sự được cải thiện sau khi tư nhân hóa ở một số quốc gia, chỉ đơn giản là thông qua việc đầu tư mới vào mạng lưới vật lý của các chủ sở hữu tư nhân mới.
 
Tiếp cận kinh tế - thông qua giá cả phải chăng cho người nghèo - là một vấn đề phức tạp hơn vì nó liên quan đến các vấn đề khó khăn hơn về thiết kế và thể chế liên quan đến việc điều tiết giá cả hoặc thiết kế trợ cấp có định hướng cho người nghèo. Trong mọi trường hợp, phạm vi tiếp cận được cải thiện sẽ phụ thuộc vào sự thành công trong việc đạt được hiệu quả - một số thặng dư tăng lên - có thể được chuyển cho người nghèo. Do đó, về nguyên tắc, với các thể chế quản lý phù hợp, các hợp đồng tư nhân hóa và nhượng quyền có thể mang lại khả năng tiếp cận hàng hóa và dịch vụ tốt hơn cho người nghèo và hiệu quả tài chính tốt hơn cho công ty.
 
Vào tháng 2-2021, UiPath, một công ty công nghệ thành lập tại Bucharest, đã gây chấn động khi vừa huy động thêm vốn ở New York với mức vốn hóa thị trường 35 tỷ USD. Mô hình Khu thương mại tự do kỹ thuật số (DFTZ: Digital Free Trade Zone) của Malaysia (với đối tác Trung Quốc) hình thành vào tháng 3-2017, đã mang lại những thành quả vô cùng ấn tượng khi góp phần tạo ra tăng trưởng kinh tế cao, nhiều công ăn việc làm, hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp vừa và nhỏ và thu hút thêm nhiều nhà đầu tư nước ngoài (chủ yếu người Trung Quốc) vào Malaysia.
 
Cuối năm 2020, Trung Quốc công bố thành lập khu thương mại tự do Bắc Kinh như là nơi lý tưởng nhất cho một “trung tâm đổi mới khởi nghiệp toàn cầu”, với việc tập trung vào thanh toán kỹ thuật số. Thậm chí, Ngân hàng trung ương Trung Quốc còn thiết lập khu vực tiền tệ kỹ thuật số pháp định và hệ thống tài chính số tại khu thương mại tự do Bắc Kinh.

71-1632975595.jpg
 

Tranh thủ cơ hội, đặc khu kinh tế GIFT City (Gujarat International Finance Tec-City) của Ấn Độ vừa bổ sung thêm các quy tắc mới cho phép các giao dịch công ty mua lại có mục đích đặc biệt (SPAC: special purpose acquisition company). Anh cũng đang cân nhắc thay đổi các quy tắc niêm yết chứng khoán để trở thành “vương quốc SPAC” toàn cầu nhằm giữ vị thế hàng đầu cho trung tâm tài chính quốc tế của mình.
 
DFTZ với các khu vực kinh tế-tài chính đặc biệt giờ đây không đơn thuần là nơi thí điểm cải cách thể chế như cách hiểu trước đây, mà thực sự trở thành công cụ linh hoạt tận dụng hiệu quả ngay lập tức, bất kỳ bùng nổ nào tạo ra từ các bất định toàn cầu để thu hút nguồn vốn khổng lồ đang luân chuyển.
 
Sự cần thiết của sự thiết lập việc tham gia vào các định chế tài chính quốc tế:
 
Những bất cập trong các quy định nghiêm ngặt về tài chính, chứng khoán đã khiến cho các làn sóng đổi mới công nghệ và các nguồn đầu tư mạo hiểm tài trợ cho chúng gặp nhiều hạn chế nếu không có những “khu đặc biệt” dung nạp. 
 
Đã đến lúc Việt Nam phải cần đến cơ chế đột phá để tạo ra các mô hình khu kinh tế tự do kỹ thuật số. Với thiên thời, địa lợi, nhân hòa, TPHCM hội đủ nhiều điều kiện lập ra một khu tài chính đặc biệt cho một vụ nổ lớn hình thành thành phố (trung tâm) tài chính, công nghệ, đổi mới sáng tạo đẳng cấp quốc tế.
 
Ở nhiều nơi trên thế giới, các tổ chức tài chính quốc tế (IFI) đóng một vai trò quan trọng trong các chương trình phát triển kinh tế và xã hội của các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển hoặc chuyển đổi. Vai trò này bao gồm tư vấn về các dự án phát triển, cấp vốn cho chúng và hỗ trợ thực hiện chúng.
 
Các định chế này được đặc trưng bởi xếp hạng tín dụng AAA và là thành viên rộng rãi của các quốc gia đi vay và tài trợ, mỗi tổ chức này đều hoạt động độc lập. Tuy nhiên, tất cả đều có chung những mục tiêu và tôn chỉ sau:
 
• Giúp giảm nghèo đói trên toàn cầu và cải thiện điều kiện cũng như tiêu chuẩn sống của người dân;

• Hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội và thể chế bền vững; 

• Thúc đẩy hợp tác và hội nhập khu vực.
 
Định chế tài chính đạt được các mục tiêu này thông qua các khoản vay, tín dụng và trợ cấp dành cho chính phủ các nước. Nguồn vốn này thường được gắn với các dự án cụ thể tập trung vào phát triển bền vững về kinh tế và xã hội. Định chế cũng cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn cho người vay của họ và tiến hành nghiên cứu sâu rộng về các vấn đề phát triển. Ngoài các cơ hội mua sắm công, trong đó nguồn tài chính đa phương được giao cho chính phủ quốc gia để thực hiện một dự án hoặc chương trình, các định chế đang ngày càng cho vay trực tiếp các tổ chức không cần chính phủ bảo lảnh bảo lãnh. Chúng bao gồm các tổ chức chính phủ tầng dưới của quốc gia, cũng như khu vực tư nhân.
 
Việt Nam cần phải là một đối tác và cổ đông trong Ngân hàng Thế giới, vốn là định chế tài chính chủ yếu toàn cầu và tvới một số ngân hàng phát triển khu vực. Tư cách thành viên này cho phép các công ty và cá nhân Việt Nam cạnh tranh để có cơ hội mua sắm trong các dự án và chương trình do ngân hàng tài trợ. Ngoài ra chúng ta cần phải thành lập sớm Văn phòng Liên lạc của Việt Nam với các Tổ chức Tài chính Quốc tế, Văn phòng này sẽ có chức năng hợp tác chặt chẽ với các công ty Việt Nam để tìm kiếm các cơ hội mua sắm đa lĩnh vực tại Định chế Tài Chính Quốc tế. Văn phòng được thiết kế để cung cấp thông tin thị trường liên quan và hỗ trợ chung cho các bên liên quan thuộc hệ thống công và tư nhân.
 
Trong những năm gần đây, định chế này đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc hài hòa cách thức họ mua sắm hàng hóa và dịch vụ. Trong nhiều trường hợp, các định chế hiện đang sử dụng các chính sách và thủ tục mang tính tương tự, mặc dù việc giải thích các cách tiếp cận này có thể khác nhau ở cấp độ của từng tổ chức. Các đặc điểm chung của mua sắm, cung cấp dịch vụ và cách thức hoạt động của nó sẽ liên quan đến các khía cạnh như.
 
• Chiến lược quốc gia

• Chu kỳ dự án

• Quy trình Mua sắm

• Thông tin Dự án và Mua sắm

• Nhà cung cấp Hàng hóa, Công trình, Thiết bị và Dịch vụ Phi tư vấn

• Tư vấn và Dịch vụ Tư vấn

• Mua sắm của Doanh nghiệp và Tổ chức

• Cho vay khu vực tư nhân

• Quỹ ủy thác

• Cách tiếp cận kinh doanh
 
Với thành phố Hồ Chí Minh, nguồn kinh phí chỉ đáp ứng khoảng 30% so với yêu cầu đầu tư công dẫn đến phải rất cân nhắc trong chọn lựa thứ tự ưu tiên các dự án. Mặt khác để xây dựng đô thị thông minh, rất cần nguồn ngân sách cực lớn huy động bằng nguồn lực tư nhân thông qua các dự án đầu tư thông minyh theo chiều sâu mới có thể tạo được sự đột phá thực sự giúp đẩy nhanh sự phát triển hài hòa, toàn diện, mang tính vững bền cho thành phố.
 
Như thế nội dung được tập trung chính yếu trong thời gian đến phải chú trọng đến các khoản vay của khu vực tư nhân không bảo lảnh chính phủ, được chính phủ hỗ trợ bằng sự thông thoáng trong lưu thông tiền tệ và giúp bảo đảm về mặt an ninh tiền tệ, nhằm phối hợp phát triển các công trình trọng điểm cho thành phố
Một số đặc tính các Định chế Tài chính Quốc tế
 
Nhận thức được vai trò quan trọng của khu vực tư nhân trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế tích cực, các Định chế Tài chính Quốc tế trong những năm gần đây đã tăng cường tập trung vào cho vay tài chính trực tiếp đối với khu vực tư nhân. Một số Định chế cũng cho vay trực tiếp đối với các tổ chức không bảo lãnh bởi chính phủ như chính quyền thành phố hoặc địa phương và các tổ chức tài chính khác.
 
Các Định chế Tài chính Quốc tế cung cấp khoản cho vay này thông qua nhiều công cụ tài chính bao gồm tài trợ trực tiếp và tham gia cổ phần tư nhân, cũng như các cơ chế tài trợ sáng tạo khác. Những cơ hội này thường được xác định và hỗ trợ thông qua các đơn vị khu vực tư nhân khác nhau được tìm thấy từ Định chế tương ứng, với mục tiêu chính là giám sát tác động phát triển của nguồn tài chính. Các trường hợp ngoại lệ sẽ được Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, có các tổ chức tổ chức riêng biệt, Tổ chức Tài chính Quốc tế và Tổ chức Đầu tư Liên Mỹ, giúp hỗ trợ các hoạt động cho vay khu vực tư nhân toàn cầu của họ.
 
Thông thường, phần lớn các khoản cho vay của khu vực tư nhân tại IFIs được chuyển vào các dự án cơ sở hạ tầng bao gồm các dự án trong lĩnh vực năng lượng, điện, giao thông, viễn thông và nước.
Ngân hàng Phát triển Á Châu 
 
Dành để tài trợ Khu vực tư nhân (Không bảo lảnh chính phủ), tập trung vào các dự án giúp thúc đẩy đầu tư tư nhân trong khu vực sẽ có tác động phát triển đáng kể và sẽ dẫn đến tăng trưởng nhanh, bền vững và bao trùm.
 
Lợi ích của Vụ Hoạt động Khu vực Tư nhân (thuộc Ngân hàng Phát triển Á Châu)
 
• Có mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược rộng lớn với các bên tham gia thị trường hàng đầu, các tổ chức tài chính và nghiên cứu, và xã hội dân sự, được hình thành trong hơn 50 năm hỗ trợ phát triển thành công của ADB trong các bối cảnh hoạt động đa dạng

• Có uy tín với các chính phủ sở tại, các nhà đầu tư tư nhân và các nhà phát triển dự án, dựa trên xếp hạng AAA của ADB, danh tiếng về bảo lãnh phát hành thận trọng và các chính sách bảo vệ đã được chứng minh

• Tài trợ giảm thiểu rủi ro thông qua phân tích tín dụng chặt chẽ và quản lý và giảm thiểu rủi ro có mục tiêu, mang lại lợi nhuận hấp dẫn được điều chỉnh theo rủi ro

• Có cách tiếp cận đa diện để cung cấp dịch vụ, không chỉ bao gồm tài chính mà còn cả vốn tri thức và các nguồn tài nguyên độc quyền khác

• Có đội ngũ chuyên gia ngân hàng và ngành có trình độ cao được rút ra từ khu vực tư nhân

• Có sự hiện diện của tổ chức và nhân viên tại 31 văn phòng khu vực, tiểu vùng và quốc gia trên toàn thế giới, cho phép gắn kết chặt chẽ hơn và bền vững với khách hàng và tham gia trực tiếp vào hoạch định chiến lược quốc gia, quản lý dự án và quản lý rủi ro.
 
Cách Đăng ký Tài trợ bởi Công ty Tài chính Quốc tế (Ngân hàng Thế giới)
 
Công ty Tài chính Quốc tế cung cấp nhiều loại sản phẩm tài chính cho các dự án khu vực tư nhân ở các nước đang phát triển.
 
Để đủ điều kiện nhận tài trợ của IFC, một dự án phải đáp ứng một số tiêu chí sau:.
 
o Được đặt tại một quốc gia đang phát triển là thành viên của Công ty Tài chính Quốc tế;

o Thuộc khu vực tư nhân;

o Có thuyết phục về mặt kỹ thuật;

o Có triển vọng sinh lời tốt;

o Mang lại lợi ích cho nền kinh tế địa phương; và

o Có lợi cho môi trường và xã hội, đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường và xã hội của Công ty Tài chính Quốc tế cũng như của nước sở tại.
 
Công ty Tài chính Quốc tế không cho vay trực tiếp đối với các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa hoặc các doanh nghiệp cá nhân, nhưng nhiều khách hàng đầu tư của chúng tôi là các trung gian tài chính cho vay lại các doanh nghiệp nhỏ hơn.
 
Một công ty hoặc doanh nhân đang tìm cách thành lập một liên doanh mới hoặc mở rộng một doanh nghiệp hiện tại có thể tiếp cận trực tiếp với Công ty Tài chính Quốc tế bằng cách gửi đề xuất đầu tư.
 
Sau cuộc tiếp xúc ban đầu và đánh giá sơ bộ này, Công ty Tài chính Quốc tế có thể tiến hành bằng cách yêu cầu một nghiên cứu khả thi chi tiết hoặc kế hoạch kinh doanh để xác định xem có nên thẩm định dự án hay không.
 
Các rủi ro đầu tư:
 
Mọi khoản đầu tư đều phải chịu rủi ro. Trong lĩnh vực phát triển thành phố thông minh, ví dụ như cơ sở hạ tầng thông minh, năng lượng mới và các chương trình tiết kiệm năng lượng và các lĩnh vực đầu tư thành phố thông minh khác, mức độ rủi ro thường quá cao để có thể thu hút đủ khối lượng đầu tư cần thiết. Bằng cách xác định bản chất của những rủi ro hạn chế quyền lợi riêng tư, khu vực công có thể tháo gỡ các rào cản tham gia thị trường thành phố thông minh cho các doanh nghiệp tư nhân. 
 
- Rủi ro công nghệ: Rủi ro này xảy ra khi mà công nghệ mới áp dụng cho thành phố thông minh không thực hiện như mong đợi trong khi triển khai thực tế.Yếu tố rủi ro công nghệ có thể xảy ra khi các thành phố chấp nhận việc thí điểm xây dựng thành phố thông minh như là một Living Lab. 

- Rủi ro hoạt động: Rủi ro này xảy ra khi hoạt động của cơ sở hạ tầng hoặc ứng dụng kỹ thuật cho thành phố thông minh hạn chế. Điều này có thể xảy ra khi các doanh nghiệp khai thác và vận hành thành phố thông minh có trình độ không đáp ứng được yêu cầu. 

- Rủi ro xây dựng: Rủi ro này xảy ra khi có những sự cố bất ngờ hoặc chậm trễ trong quá trình xây dựng hệ thống thông minh. Rủi ro này ảnh hưởng đến lợi nhuận của dự án đầu tư do làm kéo dài quá trình xây dựng nên khoảng thời gian đưa vào khai thác và có doanh thu bị chậm trễ. 

- Rủi ro thị trường: Rủi ro này xảy ra khi nhu cầu thị trường đối với cơ sở hạ tầng hoặc dịch vụ mới, thông minh thấp hơn mong đợi và thấp hơn dự báo, dẫn đến hoạt động thua lỗ do doanh thu không đủ bù đắp chi phí xây dựng hệ thống thông minh. 

- Rủi ro chính sách: Rủi ro mà khung pháp lý thay đổi, ví dụ: mức thuế hoặc giá carbon trong nhiên liệu và năng lượng bán ra giảm xuống, dẫn đến giảm lợi nhuận của dự án của các dự án giao thông thông minh hay tiết kiệm năng lượng. 
 
Khởi động kênh đầu tư tư nhân ở một số nước:
 
Việc tạo điều kiện cạnh tranh là rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và mở rộng khả năng tiếp cận. Thu hút đầu tư tư nhân tất nhiên là điều kiện cần thiết để thiết lập môi trường cạnh tranh, ngay cả khi các doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng. Thuật ngữ “đầu tư tư nhân” thực sự quá rộng để có thể hiểu được nhiều loại vai trò mà khu vực tư nhân thực hiện. Ví dụ, trong nhiều hệ thống cấp nước và vệ sinh, khu vực tư nhân tham gia chủ yếu thông qua các hợp đồng quản lý, và do đó đóng rất ít hoặc không có vai trò gì về mặt tài chính. Ở một khía cạnh khác, chính phủ có thể dựa vào nguồn vốn tư nhân để tài trợ cho các dự án công thuần túy. Đây là trường hợp chính phủ phát hành trái phiếu cơ sở hạ tầng trên thị trường vốn quốc tế. Trường hợp thứ hai này thường được mô tả là dự án công khai. Giữa hai trường hợp ở trạng thái cực này là toàn bộ danh mục các mối quan hệ PPP, trong đó khu vực tư nhân đóng vai trò kết hợp giữa tài trợ và phân phối.
 
Do vốn tư nhân vừa khan hiếm vừa đắt đỏ ở nhiều nước đang phát triển, nên các tập đoàn có trụ sở tại các nước đang phát triển đã ngày càng tiếp cận nhiều hơn với thị trường vốn quốc tế. Vốn mới huy động được thông qua các đợt chào bán chứng khoán doanh nghiệp và các khoản vay từ các tổ chức hợp vốn ngân hàng quốc tế đã tăng 300% trong giai đoạn 2003-2006 lên 400 tỷ USD. 
 
Thực tế là không đủ vốn chảy sang các nước đang phát triển do năng suất biên phải cao hơn các nước phát triển được gọi là ‘Nghịch lý Lucas’ (Lucas 1990). Trên thực tế, vốn tư nhân chảy đến các nước đang phát triển nhưng sự phân bổ dòng chảy rất không đồng đều. Năm 2006 Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ, Mexico và Nga chiếm 95% phát hành trái phiếu, 85% vay ngân hàng và 95% phát hành cổ phiếu của các quốc gia đang phát triển các tập đoàn quốc gia (Ngân hàng Thế giới 2007). Mặc dù dữ liệu đó không dành riêng cho cơ sở hạ tầng, nhưng các quốc gia tương tự cũng độc quyền tài chính cho cơ sở hạ tầng. Ví dụ, bất chấp cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra, giá trị của các dự án cơ sở hạ tầng với sự tham gia của tư nhân đã tăng 15% ở các nước đang phát triển trong năm 2009 (Fay và cộng sự 2011). Tuy nhiên, nếu loại trừ Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ, giá trị tổng thể sẽ giảm 39%.
 
Có bằng chứng rõ ràng rằng mức độ tín nhiệm của chính phủ có ý nghĩa quan trọng đối với việc tiếp cận vốn, đối với cả nhà đầu tư công và tư nhân. Khi xếp hạng chủ quyền của chính phủ - được đo bằng xếp hạng Nhà đầu tư tổ chức - giảm xuống dưới 24, một quốc gia thường mất tất cả quyền tiếp cận thị trường vốn tư nhân, ước tính rằng, trong giai đoạn 1980-2004, một vụ vỡ nợ có chủ quyền đối với một chủ nợ tư nhân khiến cho vay nước ngoài của khu vực tư nhân giảm hơn 40%. Mức độ tín nhiệm của chính phủ đặc biệt quan trọng đối với vốn cơ sở hạ tầng, do chi phí trả trước lớn và khoảng thời gian cần thiết để có nguồn thu để trang trải các khoản nợ. Thật vậy, có ý kiến cho rằng một trong những yếu tố đằng sau sự sụp đổ của PPI Mỹ Latinh vào đầu những năm 2000 là sự vỡ nợ theo hợp đồng của các cơ quan quản lý cơ sở hạ tầng công cộng Argentina (Ngân hàng Thế giới 2004). Thực tế là phần lớn các quốc gia châu Phi không có xếp hạng nợ bằng ngoại tệ đã hạn chế nghiêm trọng khả năng cung cấp tài chính cơ sở hạ tầng tư nhân bên ngoài của họ. Ngay cả khi có sẵn, nó thường bị giới hạn trong các giao dịch ngắn hạn.
 
Mặt khác phải bảo đảm các cam kết theo quy định, các cơ chế bao gồm
 
i) bản chất của chính các quy tắc định giá,
ii) khuôn khổ pháp lý theo đó các quy tắc được đưa ra và quản lý và
iii) các sắp xếp tổ chức để quản lý các quy tắc.
 
Nhiều khó khăn thực tế có thể nảy sinh khi tư nhân hóa.
 
Thứ nhất, với nguồn tài chính hạn chế của chính phủ, việc trợ cấp trực tiếp cho các dịch vụ chi phí thấp cho người nghèo có thể khó khăn. Vì vậy, có một rủi ro về việc liệu chính phủ có thể duy trì các khoản trợ cấp minh bạch sau khi tư nhân hóa hay không. Các khoản trợ cấp này sẽ cạnh tranh với các nhu cầu ngân sách khác, trong khi trợ cấp gián tiếp do định giá thấp hơn - và các khoản lỗ kèm theo trong các tiện ích do chính phủ sở hữu trước khi tư nhân hóa - thường có thể bị che giấu trong nhiều năm. Ngoài ra, có một rủi ro là việc chuyển giao tài sản vào thời điểm tư nhân hóa có thể trao quyền cho người giàu hơn là người nghèo. Các cuộc đấu giá được thiết kế kém có thể dẫn đến sự chuyển giao một lần của cải từ khu vực công (người nộp thuế) cho các nhà đầu tư mới (giới thượng lưu trong nước hoặc nhà đầu tư nước ngoài). Nếu các công ty tư nhân hóa là do người nước ngoài mua, quyền sở hữu nước ngoài có thể gây ra phản ứng chính trị. Các dịch vụ cơ sở hạ tầng thường liên quan đến mức độ cần thiết và mọi người có thể cảm thấy đặc biệt dễ bị tổn thương trước những ý tưởng bất chợt của chủ sở hữu tư nhân nước ngoài. Khi chính phủ của họ là chủ sở hữu, họ có thể cảm thấy rằng họ có một số đòn bẩy, ngay cả khi giá thấp của một công ty nhà nước đi kèm với chất lượng rất thấp. Các chính phủ đôi khi làm trầm trọng thêm sự thất vọng của người tiêu dùng đối với các nhà cung cấp tư nhân, khi họ trì hoãn việc tăng giá cần thiết cho đến sau khi tư nhân hóa - để các công ty tư nhân, thường là nước ngoài, phải chịu trách nhiệm.
 
Việc thiếu tác động đôi khi liên quan đến việc quản lý trực tiếp các cơ sở tín dụng của các tổ chức nhà nước, việc lạm dụng các khoản tiền để thúc đẩy các mục tiêu chính trị thay vì kinh tế, hoặc thao túng các khoản vay cho các mục tiêu chính trị.
 
Các định chế tài chính quốc tế ít có khả năng bị lợi ích địa phương nắm bắt vì chúng ít nhạy cảm hơn đáng kể với các bên liên quan địa phương, tập trung rõ ràng vào dài hạn bền vững và hoạt động trong tầm tay bằng cách sử dụng các trung gian tài chính. Do đó, các biện pháp khuyến khích của tổ chức có khả năng tương thích hơn để hỗ trợ DNNVV bền vững hơn là các khuyến khích của các tổ chức công tại địa phương.
 
Ngoài ra tổ chức hoạt động bằng cách làm việc với các trung gian tài chính. Cách tiếp cận này cải thiện hiệu quả chi phí so với cho vay trực tiếp đối với các DNNVV, là mô hình được một số chính quyền địa phương sử dụng. Các định chế tài chính quốc tế sẽ phải đối mặt với hai thách thức chính nếu họ cho vay trực tiếp người thụ hưởng; thứ nhất, họ không có khả năng phục vụ và giám sát số lượng lớn khách hàng tiềm năng ở các thị trường mới nổi (350-450 triệu), và thứ hai, hầu hết các định chế tài chính quốc tế có trụ sở tại các nước phát triển có cấu trúc chi phí không cho phép lựa chọn và giám sát hiệu quả về chi phí của những người thụ hưởng ở các nước đang phát triển. Làm việc thông qua các trung gian địa phương không chỉ giảm chi phí mà còn cho phép các định chế tài chính quốc tế tận dụng kiến thức và sự gần gũi của các trung gian địa phương với người thụ hưởng cuối cùng.
 
Ngoài ra, nó cho phép họ phân tích và giảm thiểu rủi ro tiềm ẩn một cách hiệu quả hơn. Lập luận này được hỗ trợ bởi các đánh giá của định chế tài chính quốc tế   cho rằng tài chính trực tiếp là tốn kém và không hiệu quả trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, và trong lịch sử đã có sự chuyển hướng từ đầu tư trực tiếp sang hỗ trợ DNNVV “bán buôn” thông qua các trung gian tài chính. Các đánh giá khác đã chỉ ra rằng “Một số chương trình được coi là tốt nhất không tiến hành đánh giá bán lẻ mà dựa vào đánh giá của bên trung gian.”
 
Cuối cùng, hiệu quả chi phí tổng thể của hầu hết các cơ sở DNNVV của định chế tài chính quốc tế được chứng minh bởi thực tế là chúng có lợi nhuận và tự duy trì, điều không may là không đúng với nhiều kế hoạch của chính quyền địa phương. Các định chế tài chính quốc tế có khả năng cung cấp một cách tiếp cận tổng hợp đối với tài chính DNNVV. Cách tiếp cận từ khoảng cách tài chính là một vấn đề nhiều mặt, do thiếu vốn, cũng như thiếu kỹ năng, kinh nghiệm và năng lực trung gian, và môi trường pháp lý mờ nhạt, định chế tài chính quốc tế có lợi thế hơn ở chỗ họ có thể cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực cùng với hỗ trợ tài chính, đồng thời cung cấp hỗ trợ và can thiệp để tăng cường môi trường cho vay. Ví dụ, những can thiệp này có thể giúp giảm xác suất và tác động của các vụ vỡ nợ trong khoản vay và danh mục đầu tư cũng như giảm chi phí giao dịch tổng thể cho các nhà đầu tư/người cho vay. Các can thiệp để giảm xác suất vỡ nợ có liên quan đến việc giảm sự bất cân xứng về thông tin, chẳng hạn như như đầu tư vào các văn phòng tín dụng. Một ví dụ về sự can thiệp để giảm tổn thất trong trường hợp vỡ nợ là việc tạo ra hoặc hợp lý hóa các thủ tục thu hồi tài sản thế chấp. Khả năng vận hành các chương trình tích hợp của định chế tài chính quốc tế giúp phân biệt họ với các bên khác. 
 
Mặt khác, công việc cấp bách đối với các nhà hoạch định chính sách nước ta là phải nhanh chóng đặt ra một quy trình tối ưu hóa tuyển chọn tài năng quốc tế từ kinh nghiệm thành công của các nước cho các chiến lược phát triển của mình. Cuối năm 2020, Trung Quốc lập ra các FTZ Bắc Kinh, Hồ Nam và An Huy, trong đó ưu tiên nhấn mạnh đến trách nhiệm của các cấp trong khâu tuyển chọn nhân tài quốc tế
 
Trước tiên là tận dụng các đổi mới tài chính đang trở thành cơn sốt toàn cầu, từ hậu quả của chính sách lãi suất thấp (thậm chí âm), thị trường chứng khoán liên tục ở mức đỉnh kỷ lục mọi thời đại, sự lạc quan kinh tế hồi phục, quá trình chuyển đổi số đang diễn ra nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực và dòng tiền khổng lồ đang lưu chuyển tự do.
 
Tất cả điều này đã dẫn tới bùng nổ các “công ty mua lại có mục đích đặc biệt” (SPAC), nhằm rút ngắn thời gian nhanh hơn và thuận lợi hơn để các công ty tư nhân được niêm yết đại chúng (dù còn một số nhược điểm nhưng nếu chỉnh sửa lại, theo The Economist, đổi mới tài chính SPAC là công cụ rất hữu ích).
 
DFTZ với các khu vực kinh tế-tài chính đặc biệt thực sự trở thành công cụ linh hoạt tận dụng hiệu quả ngay lập tức, bất kỳ bùng nổ nào tạo ra từ các bất định toàn cầu để thu hút nguồn vốn khổng lồ đang luân chuyển. nhằm tận dụng các lợi thế của từng nơi về phát triển khoa học, công nghệ và môi trường kinh doanh quốc tế hóa cao của chúng, để thu hút thêm chẳng những các nhà đầu tư quốc tế mà còn trong nước.
 
Nếu làm được điều này, các thành phố tài chính, công nghệ và đổi mới sáng tạo tương lai của Việt Nam như TPHCM, Đà Nẵng, Vân Đồn sẽ hợp lực cùng nhau để chuyển đổi rủi ro từ một cuộc đua xuống đáy thành cuộc đua cùng nhau lên đỉnh. 
 
Đây là thời điểm tốt nhất để xác lập tầm nhìn dài hạn trong một thế giới ngắn hạn, tận dụng thời cơ vàng thiết lập thể chế vượt trội tại các DFTZ, chọn khoảng trống thu hút nguồn vốn và tài năng toàn cầu được tạo ra bởi đại dịch và căng thẳng giữa các cường quốc.
 
Phát triển các khu vực hướng về công nghệ như các DFTZ và hình thành trung tâm tài chính quốc tế Việt Nam, là mục tiêu đáng để theo đuổi và là hướng đi phù hợp trong một thế giới đang thay hình đổi dạng quá nhanh và khó đoán định.
 
Điển hình TTTC quốc tế Gujarat của Ấn Độ đã đưa ra tầm nhìn từ năm 2016 là phấn đấu ngang bằng với các TTTC quốc tế hàng đầu, sau 5 năm đã xếp hạng 10 TTTC quốc tế. Điều này cho thấy tham vọng ngang bằng vượt trội ngay từ đầu là vấn đề cần được đặt ra.
 
Nếu không có tham vọng sẽ không có quyết tâm, không có quyết tâm sẽ không có sự thay đổi về thể chế và chính sách cũng như lựa chọn mô hình, bước đi đúng. Tại sao quy mô TPHCM đang đi xuống so với yêu cầu phát triển của cả nước. Chúng ta bị nghẽn mô hình và ý tưởng trong thể chế. Vì thế phải có cơ chế sanbox mới hy vọng TP sẽ có bước phát triển tạo đà liên kết vùng.
 
KẾT LUẬN:
 
Mô hình định chế tài chính quốc tế kích thích các hệ thống tài chính địa phương bền vững. Hỗ trợ của định chế tài chính quốc tế có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng hệ thống tài chính địa phương mạnh mẽ và bền vững ở các nước đang phát triển. Thứ nhất, các định chế tài chính quốc tế không “lấn át” các nhà đầu tư khu vực tư nhân khác. Họ nhắm vào những điểm không hoàn hảo của thị trường dẫn đến việc thiếu tài chính cho những người đi vay đáng tin cậy. Do đó, định chế tài chính quốc tế nhằm mục đích cung cấp vốn mà các bên khác sẽ không cung cấp và không thay thế nỗ lực của các thành phần khác trong khu vực tư nhân (tức là vốn được cung cấp là “bổ sung”). Thứ hai, bằng cách làm việc thông qua trung gian, định chế tài chính quốc tế giúp những người tham gia này có được kỹ năng, kinh nghiệm và thành tích. Vốn và hỗ trợ từ các định chế tài chính quốc tế dưới hình thức thẩm định tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật có thể giúp giảm bớt các rào cản đối với các tổ chức địa phương hoạt động trong khu vực DNNVV. Các bên cho vay cuối cùng có thể có đủ kỹ năng và thông tin để cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà không cần hỗ trợ.Thứ ba, định chế tài chính quốc tế hỗ trợ cả trung gian trong nước và nước ngoài, trái ngược với nhiều bên tham gia khác. Các ngân hàng nước ngoài có thể đóng một vai trò có lợi bằng cách giới thiệu sự cạnh tranh, tăng cường hiệu quả, truyền tải kiến thức và kỹ năng; làm như vậy, họ đóng góp vào một hệ sinh thái tài chính địa phương mạnh mẽ hơn, ngoài ra các hoạt động của ngân hàng nước ngoài có xu hướng có tác động tích cực tổng thể đến hiệu quả và sự ổn định của hệ thống tài chính của các quốc gia. Nhìn chung, mô hình định chế tài chính quốc tế sẽ giúp củng cố hệ thống tài chính địa phương và sẽ cho phép các tổ chức trung gian ở các nước nghèo hơn với thị trường vốn kém phát triển hiện nay có thể huy động nguồn lực tài chính tại địa phương trong dài hạn. Tuy nhiên, trong khi đó, các tổ chức trung gian, khu vực DNVVN và toàn bộ nền kinh tế sẽ được hưởng lợi từ vốn và kỹ năng do các định chế tài chính quốc tế cung cấp.

Hiện Việt Nam cũng đang là mục tiêu của nhiều nhóm tội phạm tài chính xuyên quốc gia để chuyển hóa nguồn vốn bất hợp pháp. Vì vậy, Việt Nam cần nâng cao khả năng ứng phó tội phạm tài chính, giúp thị trường tài chính Việt Nam giữ vững mục tiêu là điểm đến hấp dẫn cho giới chủ doanh nghiệp và nhà đầu tư chân chính.

Đại hội đại biểu Ðảng bộ TP Hồ Chí Minh lần thứ 11, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra 26 chỉ tiêu phát triển trong nhiệm kỳ trên năm lĩnh vực. Trong đó, GRDP bình quân hằng năm tăng trưởng khoảng 8%; kinh tế số đóng góp khoảng 25% đến năm 2025, 40% đến năm 2030 trong GRDP; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt 7%/năm; tỷ lệ người dân hài lòng với sự phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước ở từng lĩnh vực đạt 95% trở lên…

Ðể đạt được những mục tiêu nêu trên, thành phố đề ra bốn chương trình phát triển với hàng chục chương trình và đề án cụ thể. Ðề án phát triển thành phố trở thành trung tâm tài chính khu vực và quốc tế; Chính sách hỗ trợ kinh tế chia sẻ, kinh tế số và kinh tế tuần hoàn. Trong những mục tiêu, nhiệm vụ phát triển, việc đưa thành phố trở thành trung tâm tài chính khu vực và quốc tế được xem là một trong những mục tiêu chủ chốt của TP Hồ Chí Minh trong tương lai gần và là khát vọng cháy bỏng của thành phố nhiều năm qua. Nhiệm vụ này đã được thành phố đưa vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030. Tháng 3-2021 vừa qua, UBND thành phố Hồ Chí Minh đã có văn bản kiến nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương để thành phố xây dựng Ðề án Trung tâm tài chính khu vực và quốc tế tại thành phố.

TP Hồ Chí Minh đã và đang sở hữu rất nhiều lợi thế để hình thành và phát triển thành một trung tâm tài chính khu vực và quốc tế trong tương lai không xa. Trước hết, trong nhiều năm trở lại đây, thành phố luôn là "đầu tàu", động lực chủ yếu của nền kinh tế Việt Nam, đã đóng góp khoảng 23% GDP và khoảng 27% ngân sách quốc gia. Thành phố thu hút bình quân hơn 33% tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước. Mật độ tập trung các định chế tài chính vào loại cao nhất so với các địa phương khác, tổng vốn tín dụng huy động được trên địa bàn thành phố chiếm bình quân 24% tổng vốn huy động cả nước; tổng dư nợ cho vay cũng chiếm tới 28% tổng dư nợ cho vay toàn nền kinh tế. Thành phố cũng là nơi ra đời thị trường chứng khoán đầu tiên của Việt Nam, tổng giá trị vốn hóa tại Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh chiếm hơn 77% tổng giá trị vốn hóa toàn thị trường và 51,27% GDP cả nước năm 2020.

Việc hình thành trung tâm tài chính tầm khu vực và quốc tế tại TP Hồ Chí Minh sẽ tạo ra được hiệu ứng tích cực và lan tỏa đối với khu vực phía nam và cả nền kinh tế nước ta. Nguồn cung vốn cho sự phát triển của đất nước sẽ dồi dào hơn khi thu hút được nhiều hơn các định chế tài chính nước ngoài và các dòng vốn đầu tư quốc tế. Không những vậy, việc thành phố trở thành trung tâm tài chính khu vực và quốc tế sẽ góp phần khai thác có hiệu quả hơn tiềm lực kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm phía nam và của cả nước. để vươn đến là trung tâm tài chính khu vực và quốc tế, hệ thống tài chính thành phố cần được phát triển đồng bộ. Theo đó, tập trung phát triển hệ thống các thị trường tài chính, tiền tệ, trái phiếu, cổ phiếu; phát triển công nghệ quản lý tài sản; phát triển các dịch vụ tài chính; tăng cường mạng lưới toàn cầu của công nghệ tài chính; hoàn thiện hệ thống giám sát và các quy định tài chính…

Ngoài ra, vấn đề tuyển chọn nhân tài cũng rất cần được xem trọng. Vương quốc Anh trong khi đặt ra các chính sách miễn giảm thuế lĩnh vực R&D, thay đổi triệt để các quy tắc niêm yết trên thị trường chứng khoán, lập ra một trung tâm tài chính, đổi mới và công nghệ và một quỹ tăng trưởng do tư nhân tài trợ (được chính phủ bảo trợ và điều phối), nhưng vẫn không quên đặt trọng tâm chính vào quy trình tuyển chọn nhân tài để tạo ra một vụ “nổ lớn fintech” nhằm bảo đảm Anh vẫn là trung tâm tài chính quốc tế hàng đầu.
Nhật thuê 500 chuyên gia công nghệ kiệt xuất toàn cầu làm việc trong khu vực công để chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi số của chính phủ, họ tin rằng số hóa chậm trễ là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tiềm năng tăng trưởng thấp bấy lâu nay, bây giờ hoặc không bao giờ để số hóa nền kinh tế.
 
Vậy Việt Nam tuyển chọn tài năng am hiểu máy tính và thông thạo cả tài chính-ngân hàng cho lĩnh vực fintech chỉ trong số 100 triệu dân nước nhà hay hướng đến 8 tỷ dân số toàn cầu?

Chỉ tính riêng các nước khu vực xung quanh, với cơ chế thu hút tài năng và chiến lược quốc gia đầy tham vọng về kinh tế số, cộng với việc quá trình số hóa được thúc đẩy bởi đại dịch Covid-19, nhiều startup huy động vốn đạt mức kỷ lục chưa từng có, lên đến 47 tỷ USD trên thị trường tài chính toàn cầu chỉ trong quý I-2021

TsKH luật gia Trần Quang Thắng

Tham khảo

1/ Các Nguồn Tài Trợ Vốn Khác Đến Từ Đâu? Hội thảo Khoa học trường Đại học Huflit, 2017

2/ GIẢI PHÁP NGUỒN VỐN CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA (SME) VIỆT NAM, 2018, Hội thảo Viện Kinh tế và Quản lý TP.HCM

3/ Vài Bài Học Vượt Qua Khủng Hoảng Của Một Số Công Ty Nước Ngoài Và Cách Thức Tồn Tại Của Các Công Ty Nào Tạm Thời Vẫn Chưa Tìm Được Cơ Hội Mới Lúc Khủng Hoảng, 2019.

4/ https://nhandan.vn/tin-tuc-kinh-te/tp-ho-chi-minh-voi-khat-vong-tro-thanh-trung-tam-tai-chinh-quoc-te-644029/

5/ China's New Free Trade Zones: A Pivot Inward? CSIS, 10/2020. 

6/ Fast-track visa in FinTech’s ‘Big Bang’ growth plan. Dailybusiness, 26/2/2021.

7/ Japan to recruit tech experts for new digital agency. S&P Global Market Intelligence, 14/9/2020.

8/ Asia tech groups tap global equity markets at record pace. The Financial Times, 3/2021.

9/ Hong Kong, Singapore adopt divergent approaches to SPACs as deals heat up. S&P Global Market Intelligence, 2/3/2021.

10/ Năm 2030, Vân Đồn thành trung tâm tài chính châu Á - Thái Bình Dương. Vnexpress, 14/1/2019.

 

Nguồn bài viết: http://doanhtri.net/tin-tham-gia-cac-dinh-che-tai-chinh-quoc-te-de-tang-cuong-hieu-qua-cac-du-an-dau-tu-tu-nhan---tskh-tran-quang-thang-d71018.html

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin