Nhân sự kiện này, Tạp chí Pháp lý có cuộc trao đổi với PGS.TS. Trần Văn Độ, nguyên Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, nguyên Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương.
PGS.TS. Trần Văn Độ, nguyên Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, nguyên Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương trao đổi với Phóng viên Tạp chí Pháp lý
Hạn chế của mô hình tổ chức Toà án hiện nay
Phóng viên: Ông đánh giá thế nào về mô hình tổ chức Toà án hiện nay? Những ưu điểm và hạn chế của mô hình tổ chức Toà án hiện nay?
PGS.TS. Trần Văn Độ: Hiện nay mô hình Toà án đang tổ chức theo mô hình 4 cấp gồm: Tòa án Nhân dân Tối cao, Tòa án Nhân dân cấp cao, Tòa án Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Tòa án các huyện, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Đây là mô hình tổ chức có sự kết hợp giữa mô hình tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ và mô hình tổ chức theo cấp xét xử cấp xét xử.
Về ưu điểm, có thể nói là dễ triển khai. Bởi, mô hình hiện nay mang tính truyền thống và gắn với sự lãnh đạo của cấp ủy địa phương; gắn sự bảo đảm hoạt động tổ chức với chính quyền địa phương, với cơ quan đại diện Hội đồng nhân dân và các cơ quan hành pháp, hành chính và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện,
Tuy nhiên, tổ chức như vậy dẫn đến một hạn chế lớn đó chính là không đảm bảo được nguyên tắc độc lập xét xử, nhất là trong việc giải quyết các vụ án hành chính, khi một bên trong vụ án là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.
Ngoài ra mô hình Tòa án tổ chức gắn với đơn vị hành chính lãnh thổ dẫn đến tình trạng dàn trải về biên chế, cơ sở vật chất, tạo sự thừa, thiếu cục bộ, do mỗi đơn vị hành chính cấp huyện đều tổ chức một Tòa án.
Bên cạnh đó, cũng không đảm bảo được chức năng kiểm soát của Toà án. Tư pháp là phải kiểm soát, tuy nhiên thực tế hiện nay toà án không thể hiện được vai trò kiểm soát, đặc biệt là kiểm soát cơ quan hành pháp của địa phương và vẫn còn tình trạng UBND coi Toà án là một cơ quan cấp dưới. Điều này ảnh hướng lớn đến việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, …..
Trước đây, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã có định hướng xây dựng mô hình Toà án theo cấp xét xử. Hiến pháp năm 2013 cũng quy định, Tòa án Nhân dân thì gồm có Tòa án Nhân dân Tối cao và các Tòa khác do luật định, tức là việc thành lập Tòa án tỉnh hay là Tòa phúc thẩm; tòa sơ thẩm hay là Tòa cấp huyện thì do Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân quy định. Tuy nhiên, khi xây dựng Luật Tổ chức Toà án Nhân dân (2014), mô hình Tòa án vẫn chưa vượt qua được mô hình truyền thống.
Cải cách tư pháp phải bảo đảm tổ chức Toà án hoàn toàn độc lập
Phóng viên: Vừa qua tại Hội nghị TW 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 27 về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong giai đoạn mới. Một trong ba nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng ta xác định là đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Ông có thể cho biết, trong những định hướng của Đảng về cải cách tư pháp đối với ngành Toà án, có những yêu cầu gì mới đặt ra?
PGS.TS. Trần Văn Độ: Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 về mục tiêu đến năm 2030 hoàn thiện công tác tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đặc biệt nhấn mạnh vai trò, nhiệm vụ của Tòa án Nhân dân.
Cụ thể, đến năm 2030, cần đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Nghị quyết cũng nêu những nội dung cốt lõi mà Tòa án phải thực hiện, đó là xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Ngoài ra, Tòa án cần áp dụng hiệu quả thủ tục tố tụng tư pháp rút gọn, kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp; đổi mới, nâng cao hiệu quả cơ chế nhân dân tham gia xét xử tại tòa; hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp Tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử…
Để bảo đảm thực hiện mục tiêu này, trước hết phải xác định được chức năng của Tòa án. Điều này cũng đã được quy định rõ trong Hiến pháp năm 2013, Tòa án là cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp. Như vậy, Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp. Quyền tư pháp bao gồm: thứ nhất là quyền xử lý vi phạm pháp luật, trong đó chủ yếu là xử lý tội phạm; thứ hai là giải giải quyết các tranh chấp trong xã hội như tranh chấp về tài sản, tranh chấp về kinh doanh thương mại, tranh chấp về lao động, hành chính…; thứ ba Tòa án cũng phán quyết một số vấn đề về quyền con người.
Thứ hai là phải tổ chức một hệ thống Toà án hoàn toàn độc lập với cơ quan hành pháp và lập pháp. Tòa án phải tổ chức thành hệ thống độc lập chính quyền, thậm chí độc lập với các cơ quan hoạt động tư pháp khác. Tổ chức hệ thống Toà án theo cấp trên cấp dưới gắn với cơ quan hành chính như hiện nay theo tôi là không ổn, việc bổ nhiệm thẩm phán đặc biệt ở cấp huyện vẫn phụ thuộc vào cấp uỷ chính quyền. Do đó Toà án phải độc lập giữa các cấp và phải thành lập Hội đồng tư pháp quốc gia, do Chủ tịch nước đứng đầu.
Thứ ba, bảo đảm Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, đây là vấn đề quan trọng. Không ai có thể chỉ đạo, không ai có thể can thiệp. Bảo đảm Hội đồng xét xử ra phán quyết trên cơ sở hồ sơ, trên cơ sở việc tranh tụng và các quy định pháp luật.
Phóng viên: Để Thẩm phán và Hội đồng xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đặt ra yêu cầu gì thưa ông?
PGS.TS. Trần Văn Độ: Để Thẩm phán, Hội đồng xét xử độc lập cần phải có những cơ chế bảo đảm như:
Thứ nhất là bảo đảm về mặt pháp lý. Hiến pháp quy định Thẩm phán, Hội đồng xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp việc xét xử của Hội đồng xét xử.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có một chế tài nào để xử lý những hành vi can thiệp và lịch sử cũng chưa bao giờ có ai can thiệp vào công việc của Tòa án mà bị xử lý kỷ luật. Do đó, cần xử lý nghiêm bất kể trường hợp nào can thiệp.
Thứ hai, Thẩm phán cần phải được bảo đảm về mặt chính trị. Thứ ba, việc lựa chọn và bổ nhiệm Thẩm phán phải bảo đảm có khả năng độc lập, có trình độ, năng lực về chuyên môn nghiệp vụ; có kinh nghiệm, đặc biệt phải có bản lĩnh nghề nghiệp. Thứ tư, phải đảm bảo vật chất, tiền lương của Thẩm phán…
Tóm lại, phải có một tổ chức hệ thống độc lập; bảo đảm về tư tưởng, về chính trị; bảo đảm về pháp lý, cơ sở vật chất này và nguồn nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực thẩm phán… tất cả những vấn đề đó phải thực hiện thật tốt thì mới đảm bảo được tính độc lập.
TAND Tối cao đề xuất thành lập các Tòa án chuyên biệt, đổi tên Tòa án cấp tỉnh thành Tòa phúc thẩm, Tòa án quận, huyện thành Tòa sơ thẩm (ảnh minh hoạ)
Nhiều vấn đề cần nghiên cứu kỹ khi thành lập các Tòa án chuyên biệt
Phóng viên: Thực hiện định hướng của Đảng về cải cách tư pháp đối với ngành Toà án, hiện Tòa án Nhân dân Tối cao có đề xuất cải cách, đổi mới mô hình tổ chức Tòa án Nhân dân. Điểm đáng chú ý của đề xuất là dự kiến đổi tên Tòa án Nhân dân cấp tỉnh và huyện thành Tòa án Nhân dân phúc thẩm, Tòa án Nhân dân sơ thẩm và thành lập mới 3 Tòa chuyên biệt về hành chính, sở hữu trí tuệ và phá sản. Ông đánh giá thế nào về đề xuất đổi mới này?
PGS.TS. Trần Văn Độ: Đây là một đề xuất rất tốt, bởi vì thành lập Tòa án Nhân dân phúc thẩm, Tòa án Nhân dân sơ thẩm sẽ nâng cao tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa trong hoạt động của Tòa án, Tòa cấp nào xử theo cấp đấy rất rõ ràng.
Tuy nhiên, để đạt được mục đích cần làm rõ hơn về định hướng, giải pháp và lộ trình thực hiện. Đổi mới mô hình Tòa án, đòi hỏi phải đổi mới về thực chất trong cách tổ chức, hoạt động chứ không chỉ dừng lại ở đổi tên gọi các cấp Tòa.
Chẳng hạn như về thẩm quyền xét xử đối với vụ án đặc biệt nghiêm trọng hiện nay thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh và do thẩm phán từ trung cấp trở lên xét xử. Sau này, khi thành lập Toà án sơ thẩm sẽ giao về cho Toà sơ thẩm xét xử…
Phóng viên: Việc cải cách, đổi mới mô hình tổ chức Tòa án Nhân dân có những ý nghĩa quan trọng nào đối với cải cách tư pháp hiện nay? Đối với đề xuất thành lập các Tòa án Nhân dân chuyên biệt, theo ông, cần có những khác biệt gì với các Tòa chuyên trách về dân sự, hình sự, lao động, kinh tế, hành chính… hiện nay?
PGS.TS. Trần Văn Độ: Trong Nghị quyết có nói, nâng cao tính chuyên nghiệp Toà án, do đó thành lập các Toà chuyên biệt là một hình thức thể hiện tính chuyên nghiệp đó. Hiện nay, Toà án tại các địa phương cũng đã có các Toà án chuyên trách về hình sự, kinh tế, lao động… Tuy nhiên, việc sắp xếp này mới chỉ giải quyết tính hợp lý của bộ máy. Cán bộ, thẩm phán chưa được chuyên nghiệp hoá, chuyên môn chưa sâu dẫn đến việc giải quyết bị kéo dài, chất lượng giải quyết không được bảo đảm. Các thẩm phán vẫn được luân chuyển làm thẩm phán các Tòa chuyên trách khác nhau hoặc được phân bổ xét xử nhiều loại án.
Sự khác biệt giữa các Toà chuyên trách hiện nay với các Toà chuyên biệt đó chính là sự tách biệt giữa các Toà chuyên biệt với với Toà án chung. Việc thành lập các Toà án chuyên biệt có ý nghĩa quan trong trong cải cách tư pháp, đặc biệt đối với ngành Toà án là đảm bảo sự chuyên nghiệp; đảm bảo công tác xét xử các vụ án, công tác đào tạo cán bộ… sát với yêu cầu nhiệm vụ.
Phóng viên: Để các Toà án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ, phá sản doanh nghiệp, hành chính phát huy ưu thế chuyên môn cao trong việc xét xử; cũng như đáp ứng được yêu cầu thực tiễn; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, cần đặt ra các yêu cầu gì ?
PGS.TS. Trần Văn Độ: Việc thành lập các Toà chuyên biệt theo tôi vẫn cần nghiên cứu kỹ lưỡng. Chẳng hạn đối với Toà chuyên biệt về phá sản, cần phải xem hiện có nhiều vụ việc phá sản hay không? nếu thành lập cả một hệ thống Toà án chuyên biệt mà một năm chỉ xử vài ba chục vụ sẽ gây lãng phí nguồn lực.
Thứ hai là việc thành lập thí điểm Toà sở hữu trí tuệ tại Hà Nội, có đảm bảo được những vụ tranh chấp sở hữu trí tuệ ở Kiên Giang, An Giang… sẽ khởi kiện tại Toà Sở hữu trí tuệ Hà Nội hay không?... rất nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng.
Khi thành lập các Toà chuyên biệt cũng đòi hỏi những người làm Thẩm phán, cán bộ trong Toà án phải thực sự chuyên nghiệp từng lĩnh vực cụ thể nào đó. Điều này đặt ra yêu cầu đối với công tác tổ chức, công tác đào tạo cán bộ, đào tạo nguồn nhân lực phải chuyên môn hoá cao; việc luân chuyển cán bộ Thẩm phán cũng chỉ được luân chuyển trong phạm vi chuyên biệt… Ví dụ như Toà án quân sự hiện này là chuyên biệt, chuyên biệt ở chỗ, họ là những người được đào tạo đủ các tiêu chuẩn về pháp lý nhưng họ phải là những người đào tạo trong quân đội, nắm vững được điều kiện trong quân đội để xét xử.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!