(Pháp lý) - Mặc dù không thể phủ nhận những đóp góp của các doanh nghiệp khu vực FDI trên cả phương diện kinh tế và xã hội. Song điều mà dư luận rất quan ngại chính là vấn đề tránh thuế nói chung và chuyển giá nói riêng của nhiều doanh nghiệp FDI hoạt động ở Việt Nam thời gian qua.
Thấy gì từ những con số
Theo các báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy, mỗi năm có khoảng từ 40-50% doanh nghiệp FDI kê khai lỗ. Trong đó có rất nhiều doanh nghiệp lỗ liên tục trong nhiều năm, thậm chí có doanh nghiệp lỗ lũy kế đến mức âm vốn chủ sở hữu, nhưng vẫn tiếp tục hoạt động bình thường, kể cả việc mở rộng quy mô kinh doanh. Một số địa phương thu hút nhiều doanh nghiệp FDI như TP.Hồ Chí Minh, Bình Dương tỷ lệ doanh nghiệp FDI kê khai lỗ lên đến 50-60%, trong đó có rất nhiều doanh nghiệp kê khai lỗ trong nhiều năm. Năm 2010, số doanh nghiệp FDI kê khai lỗ ở Bình Dương là 754/1.490 doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng 50,6%, trong đó có 200 doanh nghiệp lỗ quá vốn chủ sở hữu. Đặc biệt hơn, ở Lâm Đồng có đến 104/111 doanh nghiệp FDI kê khai lỗ trong năm 2009 và nhiều năm trước đó. Nhiều tỉnh, thành thu hút nhiều doanh nghiệp FDI như Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hải Phòng, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An... không thấy các cơ quan chức năng báo cáo tình hình kê khai lãi, lỗ của các doanh nghiệp FDI, nhưng có thể con số cũng không thấp hơn tỷ lệ 50% con số bình quân của cả nước. Theo báo cáo gần đây nhất vào đầu năm 2018 của VCCI, có đến 37,9% doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ trong năm 2017.
Tình trạng kê khai lỗ không cá biệt trong bất kỳ ngành nghề nào, nhưng thường phổ biến ở các ngành nghề như chế biến chế tạo, sản xuất hàng may mặc, da giầy, sản xuất các mặt hàng gia dụng, bán lẻ, nước giải khát, v.v... Ở TP. HCM, theo thông tin của Cục thuế, các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực siêu thị, bán lẻ, nước giải khát đứng đầu danh sách các doanh nghiệp luôn báo lỗ. Một số báo cáo khác cho thấy có đến 90% số doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực may mặc ở TP.HCM có báo cáo tài chính lỗ, trong khi hầu hết các doanh nghiệp nội địa hoạt động trong cùng ngành lại có lãi. Điều này thật mâu thuẫn khi nhìn chung các doanh nghiệp nội địa thường được đánh giá có năng lực và lợi thế cạnh tranh thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp FDI cùng ngành. Điều đáng chú ý là mặc dù lỗ, thậm chí lỗ lũy kế đến mức âm vốn, nhưng các doanh nghiệp vẫn tiếp tục mở rộng quy mô kinh doanh thay vì phải phá sản hay đóng cửa sản xuất.
Doanh nghiệp FDI chuyển giá và những quan ngại
Một số doanh nghiệp kê khai lỗ điển hình ở Việt Nam thời gian qua gây sự chú ý dư luận là trong lĩnh vực nước giải khát, cụ thể Coca-Cola và Pepsi. Với Coca-Cola, theo Cục thuế TP.HCM, từ khi bắt đầu hoạt động ở Việt Nam năm 1992, công ty này liên tục báo lỗ cho đến cuối năm 2012. Đến thời điểm tháng 12/2012, tổng số lỗ lũy kế của Coca-Cola Việt Nam lên đến 3.768 tỉ đồng, vượt quá số vốn đầu tư ban đầu 2.950 tỉ đồng. Như vậy, về mặt kỹ thuật thì lẽ ra Coca-Cola Việt Nam đã phải phá sản. Tuy nhiên, thay vì đóng cửa hay thu hẹp quy mô hoạt động, năm 2014 Coca-Cola tiếp tục đầu tư thêm 210 triệu USD để mở rộng kinh doanh ở Việt Nam. Điều này đặt ra cho các cơ quan thuế Việt Nam về nghi án chuyển giá của công ty này. Tuy nhiên, về mặt bằng chứng để chứng minh Coca-Cola Việt Nam chuyển giá là yếu. Sau nhiều nỗ lực đấu tranh của phía Việt Nam, đến năm 2013, Coca-Cola Việt Nam đã bắt đầu báo lãi và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho Chính phủ Việt Nam. Trường hợp Pepsi Việt Nam cũng tương tự như Coca-Cola Việt Nam. Vào Việt Nam sớm hơn Coca-Cola (năm 1991) nhưng trong suốt gần 20 năm hoạt động, Pepsi Việt Nam cũng liên tục kê khai lỗ và không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, do mức tăng trưởng tiềm năng quá lớn của thị trường nước giải khát Việt Nam, Pepsi Việt Nam vẫn tiếp tục đầu tư thêm nhiều nhà máy mới ở các tỉnh, thành khác trong cả nước để mở rộng thị phần. Và việc tìm các bằng chứng chứng minh Pepsi Việt Nam chuyển giá cũng khó khăn không kém so với Coca-Cola Việt Nam.
Metro bắt đầu kinh doanh ở Việt Nam từ đầu năm 2002 với số vốn ban đầu là 120 triệu USD, trong đó vốn pháp định là 36 triệu USD. Sau khoảng 12 năm hoạt động (2002-2013) Metro Việt Nam đã 6 lần thay đổi giấy phép kinh doanh, nâng tổng vốn đầu tư tại Metro Việt Nam lên hơn 301 triệu USD vào tháng 5/2013. Điều đáng lưu ý là trong giai đoạn này, Metro Việt Nam liên tục kê khai lỗ với số lỗ lũy kế lên đến 1.657 tỉ USD và chỉ duy nhất năm 2010 là có lãi 173 tỉ đồng. Mặc dù lỗ nhưng Metro Việt Nam vẫn tiếp tục mở thêm 19 điểm bán lẻ trên toàn quốc. Từ kết quả này, cơ quan thanh tra thuế đã vào cuộc và xác định có hành vi chuyển giá, qua đó yêu cầu Metro Việt Nam điều chỉnh giảm lỗ, giảm khấu trừ và truy thu thuế với số tiền lên đến hơn 500 tỉ đồng, đồng thời xác định Metro Việt Nam đã có lãi trong 2 năm (2010 và 2011) với số tiền 234,8 tỉ đồng.
Theo số liệu của Tổng cục Thuế, trong giai đoạn 2002 - 2013, chi phí nhượng quyền thương mại mà Metro Việt Nam phải trả cho công ty mẹ ở Đức đã lên tới 731 tỉ đồng. Bên cạnh đó, chi phí lương, thưởng và phụ cấp cho ban giám đốc và chuyên gia nước ngoài trả cho các cá nhân thông qua Metro Cash & Cary GmbH (MCC) tại Đức cũng là một con số rất lớn, lên tới 699 tỉ đồng. Theo Tổng cục Thuế, đây là những giao dịch liên kết “mánh lới” để Metro Việt Nam chuyển giá.
Keangnam Vina là một công ty bất động sản 100% vốn của Hàn Quốc. Vào Việt Nam từ tháng 7/2007, Keangnam Vina ký hợp đồng chìa khóa trao tay với Công ty Keangnam Enterprise – một công ty con thuộc tập đoàn Keangnam Hàn Quốc, làm tổng thầu Hợp đồng thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng công trình (EPC). Tổng giá trị của hợp đồng lên đến 871 triệu USD. Vai trò của Keangnam Enterprise không chỉ khảo sát, thiết kế, cung cấp thiết bị máy móc, thi công xây dựng dự án, mà còn cung cấp cả dịch vụ tư vấn tài chính, dàn xếp vốn vay cho Keangnam Vina. Năm 2008, khoản phí tư vấn tài chính mà Keangnam Vina trả cho Keangnam Enterprise lên tới 30 triệu USD, phí dịch vụ sắp xếp nguồn vay lên tới 20 triệu USD, chi phí tư vấn quảng cáo, tư vấn cấp quyền sử dụng đất, cấp giấy phép đầu tư cũng lên đến vài triệu USD. Do những khoản chi phí đó, Keangnam Vina liên tục báo lỗ và do vậy không nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Khoản lỗ này tất nhiên chuyển thành khoản lãi của Keangnam Enterprise ở Hàn Quốc. Trong khi đó, Keangnam Enterprise chỉ phải nộp thuế nhà thầu cho Việt Nam với mức thuế suất thấp hơn nhiều so với thuế thu nhập doanh nghiệp Việt Nam. Tình hình hoạt động của Keangnam Vina sau 5 năm cho thấy công ty này luôn khai báo lỗ. Theo số liệu của cơ quan thuế, tính đến thời điểm 2011 khi tòa nhà Keangnam Hanoi Landmark bắt đầu vận hành, doanh thu của công ty đạt trên 5.200 tỉ đồng, nhưng công ty lại khai báo lỗ lên đến 140 tỉ đồng.
Từ thực trạng này, cơ quan thuế Việt Nam đã vào cuộc thanh tra và xác định hành vi chuyển giá của Keangnam Vina. Sau thanh tra, cơ quan thuế đã yêu cầu loại trừ tất cả những khoản chi phí đầu vào bất hợp lý. Rất nhiều khoản giá vốn xây dựng bị dàn xếp bất hợp lý đã bị buộc phải điều chỉnh lại. Vì vậy, tổng giá trị hợp đồng EPC từ mức 871 triệu USD đã giảm chỉ còn 699 triệu USD. Kết quả thanh tra buộc Keangnam Vina phải thừa nhận hành vi chuyển giá và phải điều chỉnh giá lên đến 1.220 tỉ đồng. Không những vậy, Keangnam Vina còn bị truy thu thuế thu nhập doanh nghiệp lên đến 95,2 tỉ đồng do điều chỉnh lại lợi nhuận của giai đoạn 2007-2011.
Không chỉ có các tập đoàn quốc tế lớn mới có hành vi chuyển giá, ngay cả các doanh nghiệp nước ngoài quy mô nhỏ hơn nhiều cũng chuyển giá.
Qua kiểm tra, cơ quan thuế Lâm Đồng đã hướng dẫn 17 doanh nghiệp FDI xử lý hết số lỗ lũy kế trong hạn chuyển lỗ đến hết cuối năm 2009 hơn 316,5 tỉ đồng, trong đó, Công ty TNHH HaiYih xử lý lỗ lũy kế với số tiền là 63,6 tỉ đồng, Công ty Trà Kinh Lộ 56,8 tỉ đồng, Công ty TFB Việt Nam 47,9 tỉ đồng... Các doanh nghiệp này cũng đã kê khai và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với số tiền gần 8 tỉ đồng.
Ngoài những doanh nghiệp điển hình nêu trên, còn rất nhiều tình huống chuyển giá khác đã được cơ quan thuế Việt Nam thanh tra và làm rõ được hành vi chuyển giá. Tuy nhiên cũng có rất nhiều trường hợp chưa phát hiện, hoặc hiện đã có nghi vấn nhưng việc thanh tra và kết luận vẫn còn rất nhiều khó khăn và thách thức.
Đánh giá về những tác động của việc chuyển giá, PGS-TS Phan Duy Minh, nguyên Phó giám đốc Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán, Kiểm toán nhà nước cho rằng: hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp FDI hầu như chỉ làm lợi duy nhất cho các doanh nghiệp của họ mà thôi. Ngược lại, đã gây bất lợi, tác động xấu đến nhiều mặt của nước sở tại tiếp nhận FDI, như gây thất thu lớn cho NSNN. Hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp FDI chủ yếu và phổ biến nhất là để trốn, tránh phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, với “bài ca” quen thuộc là làm giảm đến mức thấp nhất có thể lợi nhuận chịu thuế và thượng sách là “lỗ một cách hợp lý”. Thực tế chỉ ra cho thấy, 50% doanh nghiệp FDI đang hoạt động ở Việt Nam báo lỗ. Lỗ có nghĩa là thuế thu nhập doanh nghiệp họ phải nộp cho Chính phủ Việt Nam là con số 0.
Từ những nghịch lý đó của các doanh nghiệp FDI, cơ quan chức năng cần sớm nhận diện những bất cập, lỗ hổng trong công tác quản lý cũng như cơ chế chính sách pháp luật điều chỉnh loại hình doanh nghiệp này, từ đó mới có những giải pháp xử lý hữu hiệu.
Nguyễn Hòa (tổng hợp)