Từ khóa "Luật hình sự tố tụng" :
Bài 17 - Trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân: Phạt tiền và đình chỉ hoạt động là 2 hình phạt chính
(Pháp lý) - Trách nhiệm hình sự (TNHS) của pháp nhân trong khoa học pháp luật hình sự có thể hiểu là hậu quả pháp lý của việc pháp nhân thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân do Luật Hình sự quy định. Như vậy TNHS của pháp nhân không vượt ra khỏi nội hàm của khái niệm TNHS, chỉ khác ở điểm, thay vì trước đây, TNHS chỉ áp dụng cho cá nhân người phạm tội thì nay có thể áp dụng cho pháp nhân.
Từ 01/01/2018 sẽ xử lý hình sự đối với pháp nhân có hành vi xả thảivượt quá quy chuẩn kỹ thuật với lưu lượng xả thải lớn gây ô nhiễm môi trường (ảnh minh họa))
Chế tài hình sự đối với pháp nhân kinh tế
Đây là một nội dung hoàn toàn mới và vô cùng quan trọng, làm thay đổi cơ bản chính sách hình sự truyền thống, trước đó BLHS năm 1999 không có quy định TNHS đối với pháp nhân. Bên cạnh nguyên tắc cá thể hóa TNHS, luật hình sự Việt Nam đã đặt ra TNHS của pháp nhân thương mại trong một số tội theo quy định của BLHS 2015 (sửa đổi năm 2017).
Có thể thấy TNHS của pháp nhân thương mại được quy định bổ sung trong BLHS năm 2015 được hình thành trên cơ sở đánh giá tình hình, điều kiện mới, nhất là trong giai đoạn đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tội phạm. Điều này, đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh, xử lý tội phạm trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được thể hiện trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
Theo đó, với việc sửa đổi, bổ sung tại khoản 2, Điều 2 BLHS năm 2015 về cơ sở TNHS: “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”, có thể coi đây là lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển pháp luật hình sự nước ta quy định cơ sở TNHS đối với pháp nhân thương mại và cũng là quy định mang tính tiền đề, làm nền tảng cho những quy định khác về TNHS đối với pháp nhân trong BLHS năm 2015.
Tuy nhiên cần phải hiểu một cách đầy đủ và chính xác nội hàm của pháp nhân thương mại BLHS năm 2015 là chỉ đặt vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các pháp nhân kinh tế. Còn những pháp nhân khác hoặc những tổ chức không có tư cách pháp nhân (cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác... theo quy định tại các Điều 74, Điều 75, Điều 76 - BLDS năm 2015) thì chủ thể sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ngay cả pháp nhân kinh tế cũng chỉ có pháp nhân gắn với hoạt động thương mại mới chịu TNHS. Như vậy, quy định TNHS đối với pháp nhân thương mại là phù hợp với thực tiễn nhằm tạo tính răn đe cao đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần phòng, chống các loại tội phạm mà chủ thể là pháp nhân vì lợi nhuận gây hại đến môi trường, kinh tế và các lĩnh vực khác. Các vụ việc vi phạm nghiêm trọng luật pháp về môi trường, kinh tế do các pháp nhân thương mại thực hiện thời gian qua cho thấy thủ đoạn ngày càng tinh vi và để lại hậu quả nghiêm trọng như vụ Công ty Vedan (Đồng Nai), vụ Công ty Nicotex (Thanh Hóa), vụ Formosa (Hà Tĩnh)… mặc dù làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường nhưng không bị pháp luật hình sự chế tài hành vi.
Vừa nghiêm khắc vừa mềm dẻo
Quy trình xử lý hình sự pháp nhân được quy định trong BLHS 2015 dựa trên bốn nguyên tắc thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời thể hiện sự mềm dẻo trong việc xử lý đối với từng loại pháp nhân phạm tội.
Theo đó tại khoản 2, Điều 3 BLHS năm 2015 quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội: “a) Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật; b) Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; c) Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng; d) Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra”.
Kể cả pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS 2015 trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Điều 6 BLHS năm 2015).
Quy định trên theo các chuyên gia luật, mang tính pháp điển hóa những quy định trong các Điều ước quốc tế về tội phạm mà Việt Nam là thành viên. Thông qua việc pháp điển hóa hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại nước ngoài, giúp nước ta vừa bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, vừa giúp cho hoạt động giao lưu, trao đổi kinh tế với các nước trên thế giới được bình đẳng, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Đặc biệt lần đầu tiên trong lịch sử xây dựng pháp luật hình sự, khái niệm về tội phạm đã được mở rộng bao gồm cả pháp nhân thương mại phạm tội, tạo cơ sở vững chắc để truy cứu TNHS đối với pháp nhân, mang bốn đặc trưng của tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi, tính phải chịu hình phạt. Theo đó, Điều 8 BLHS năm 2015 quy định: “1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Điều 30 BLHS năm 2015 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó”.
Như vậy so với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung quy định về khái niệm hình phạt có sự mở rộng hơn về chủ thể. Tuy nhiên cần phải hiểu đầy đủ, mục đích chính của hình phạt đối với pháp nhân thương mại không chỉ là trừng trị mà còn nhằm mục đích giáo dục, răn đe, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phảm, bảo đảm an toàn và sự phát triển của xã hội, qua đó góp phần đảm bảo sự công bằng trong xử lý hình sự giữa cá nhân với pháp nhân thương mại theo đúng nguyên tắc, mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật.
Đánh mạnh vào kinh tế của pháp nhân
Dựa trên kinh nghiệm của các nước khác và thực tiễn pháp nhân phạm tội ở Việt Nam để cụ thể hoá hình phạt đối với pháp nhân, tại Chương VI của BLHS năm 2015, lần đầu tiên pháp luật hình sự nước ta quy định các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội, bao gồm hai loại hình phạt là hình phạt chính (khoản 1 Điều 33) BLHS năm 2015 và hình phạt bổ sung (khoản 2 Điều 33). Cụ thể: - Hình phạt chính bao gồm: Phạt tiền; Đình chỉ hoạt động có thời hạn; Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; - Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; Cấm huy động vốn; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính. Luật cũng quy định (khoản 3 Điều 33): Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.
Có thể thấy, một trong những đặc điểm nổi bật trong quy định hình phạt đối với pháp nhân là các nhà làm luật đánh mạnh vào mặt kinh tế của pháp nhân, xuất phát từ mục đích chính của pháp nhân là hoạt động vì lợi nhuận, đây là mặt trực tiếp và có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự tồn tại và phát triển của pháp nhân. Đồng thời, những loại hình phạt mà BLHS năm 2015 quy định đối với pháp nhân thương mại, đã và đang được quy định là những hình thức xử lý vi phạm đối với pháp nhân trong những văn bản pháp luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012… và nhiều văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, những hình thức xử lý này chưa đủ sức răn đe, giáo dục cho nên chưa mang lại hiệu quả đấu tranh phòng ngừa cao đối với pháp nhân có hành vi vi phạm. Chính vì thế, dưới góc độ là những loại hình phạt do BLHS quy định, mang tính nghiêm khắc, cưỡng chế nhà nước cao nhất thì sẽ góp phần quan trọng vào quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm do pháp nhân gây ra một cách có hiệu quả.
Việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại là vấn đề mới được đặt ra, Việt Nam chưa có kinh nghiệm thực tiễn về chế định này, do vậy việc xác định các tội danh mà pháp nhân thương mại phải chịu TNHS trong BLHS 2015 đã thể hiện sự thận trọng, phù hợp, trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm và phổ biến của những hành vi vi phạm xảy ra trong thực tiễn để quy định trong BLHS nhằm xử lý hành vi phạm tội. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, trước mắt, xác định phạm vi các tội danh mà pháp nhân phạm tội phải chịu TNHS chỉ thuộc các nhóm tội phạm kinh tế và tội phạm về môi trường, đây là những tội danh mà pháp nhân thường hay vi phạm (tính phổ biến), có mức độ nguy hiểm nhất định và dễ chứng minh trên thực tế.
Nhìn chung, đây là những tội mà thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm thời gian qua đã diễn ra rất phức tạp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và thiệt hại đối với xã hội, với nhân dân do pháp nhân gây ra là rất lớn. Với 31 tội danh mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự là tương đối bao quát, đủ để xử lý các hành vi vi phạm nghiêm trọng của pháp nhân trong thực tiễn hiện nay./.
Theo thống kê mới nhất, hiện trên thế giới có 119 nước quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân như Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, Canada, Australia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Phần Lan, Vương quốc Bỉ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Slovakia, Hungari, Lavia, Estonia, Croatia,… trong đó, khu vực ASEAN có 06 nước như Singapo, Malaixia, Thái Lan, Philipin, Indonexia và Campuchia. Đặc biệt, Trung Quốc là nước có nhiều nét tương đồng về truyền thống lập pháp với nước ta cũng đã có quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân.
VŨ LÊ MINH
Bài 16: Những quy định thể hiện tính nhân đạo sâu sắc
(Pháp lý) - Việc xác định một người có phạm tội hay không không chỉ ảnh hưởng tới sinh mệnh pháp lý của một cá nhân mà còn thể hiện chính sách, quan điểm của Nhà nước trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân nói chung. Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 được đánh giá là Bộ luật thể hiện sâu sắc tính nhân đạo của Nhà nước ta. Một trong những biểu hiện của tính nhân đạo trong Bộ luật này thể hiện ở những điểm mới trong việc ghi nhận các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.
Đây là lần đầu tiên BLHS dành hẳn một Chương quy định về các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự cho cá nhân, tổ chức. Trước đó, Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2003 cũng có quy định về các trường hợp không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, các trường hợp này còn nằm rải rác, lẻ tẻ, là ba trong mười lăm điều luật Quy định tại Chương III “Tội phạm” của BLHS năm 1999. Đến BLHS năm 2015, lần đầu tiên các trường hợp này được “nhóm” lại, thành một Chương lớn trong Bộ luật.
Buộc phải sử dụng vũ lực khi bắt trộm, sẽ không còn là tội phạm (trong ảnh: một người từng trói trộm bị tòa tuyên 6 tháng cải tạo không giam giữ))
Trong Báo cáo đánh giá tác động BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Bộ Tư pháp – cơ quan chủ trì soạn thảo BLHS xác định: Chương IV BLHS mới quy định 7 trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự, ngoài những quy định cũ là “sự kiện bất ngờ” (điều 20), “tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự” (điều 21), “phòng vệ chính đáng” (điều 22) và “tình thế cấp thiết”(điều 23), BLHS năm 2015 bổ sung thêm 3 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự hoàn toàn mới đó là “gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội” (điều 24), “rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ” (điều 25) và “thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên” (điều 26). Việc ghi nhận những trường hợp này thành một Chương riêng trong BLHS năm 2015 đã thể hiện một cách nhìn mới nhân văn hơn, tiến bộ hơn của Đảng và Nhà nước ta về các trường hợp không phải chịu trách nhiệm hình sự nói riêng, về bảo vệ quyền con người, quyền công dân nói chung.
Điều 24: Giúp yên tâm khi trấn áp tội phạm
Trao đổi với Phóng viên Pháp lý về trường hợp gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội được quy định tại Điều 24 BLHS 2015 sửa đổi 2017, bà Nguyễn Hải Yến (Giảng viên bộ môn Pháp luật Hình sự - trường Đại học An ninh nhân dân) cho biết: Thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy, nhiều trường hợp để bắt giữ tội phạm, người bắt giữ buộc phải dùng vũ lực cần thiết để khống chế người có hành vi phạm tội. Nhiều trường hợp trong số đó tất yếu phải gây thiệt hại cho người bị bắt giữ. Tuy nhiên, BLHS năm 1999 chưa có quy định cụ thể loại trừ trách nhiệm hình sự trong các trường hợp này. “Lỗ hổng” này của Bộ luật Hình sự cũ cũng là một lỗ hổng trong cơ chế ngăn ngừa, đấu tranh và chống tội phạm.
Quy định tại Điều 24 BLHS năm 2015 về “hành vi của người thực hiện nhiệm vụ bắt giữ người có hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm”. Đây là quy định mới, không chỉ tạo điều kiện cho các cá nhân, cơ quan có trách nhiệm đấu tranh trấn áp tội phạm thực hiện nhiệm vụ mà còn khiến người dân yên tâm khi thực hiện nghĩa vụ tham gia phòng, chống tội phạm. Liên quan đến vấn đề này, BLHS năm 2015 cũng quy định rõ: Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định này bảo đảm loại trừ và xử lý hình sự đúng đắn, chính xác các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội do “mượn” hoặc vượt quá giới hạn yêu cầu của công tác “bắt giữ người phạm tội”.
Điều 25: Có ý nghĩa đặc biệt với kinh tế tri thức
Còn nhớ, một trong những định hướng lớn được quán triệt trong xây dựng BLHS 2015 đó là tạo các quy phạm pháp lý góp phần bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Trên thực tế, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi sự năng động, sáng tạo trong sản xuất, trong nghiên cứu, thử nghiệm, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích của xã hội. Trong quá trình đó sẽ không tránh khỏi những trường hợp rủi ro gây thiệt hại về người và tài sản. Bà Nguyễn Hải Yến nhắc ví dụ: Với tinh thần dám nghĩ, dám làm, phát huy tính năng động, sáng tạo, tập thể kỹ sư nhà máy xi măng X đã quyết định áp dụng công nghệ lò ngang thay cho lò đứng, vì lò ngang có nhiều ưu điểm hơn năng suất cao, tiết kiệm năng lượng tiêu hao… Trong quá trình tiến hành đã cập nhập kiến thức và công nghệ tiên tiến, vận hành thử nhiều lần và nhận được kết quả tốt. Tuy nhiên, khi đưa vào vận hành chính thức thì sự cố đã xảy ra, lò nổ, gây thiệt hại về người và tài sản.
Khi nghiên cứu thử nghiệm áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, kĩ thuật mà đã tuân thủ đúng các quy định, áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhưng vẫn gây thiệt hại thì không bị xem xét TNHS)
Việc BLHS năm 2015 bổ sung quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với trường hợp rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế tri thức, thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Quy định này là bảo đảm chắc chắn cho những ý tưởng mới, sáng tạo, cải tiến kỹ thuật và công nghệ, động viên các nhà khoa học nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên tiến vì sự phồn vinh của đất nước.
Đồng thời, điều luật cũng quy định rõ trường hợp không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng ngừa hậu quả có thể xảy ra, gây thiệt hại cho xã hội thì người thực hiện hành vi này vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự, nhằm ngăn chặn những việc làm bừa, làm ẩu nhưng viện lý do nghiên cứu khoa học, thử nghiệm… để trốn tránh trách nhiệm hình sự.
Điều 26: Người thực hiện mệnh lệnh sai của cấp trên không bị truy cứu TNHS
Bên cạnh quy định loại trừ trách nhiệm hình sự cho người gây thiệt hại khi bắt giữa người phạm tội và người gây thiệt hại do rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, Điều 26 cũng quy định về loại trừ trách nhiệm hình sự khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên. Điều 26 BLHS quy định: “Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Quy định này của BLHS đảm bảo nguyên tắc “mệnh lệnh-phục tùng” – nguyên tắc đặc thù trong lực lượng vũ trang nhân dân. Nguyên tắc này đã được quy định rõ tại Điều 26 Luật Sỹ quan quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999 và Điều 30 Luật Công an nhân dân năm 2014. Theo đó, “nghĩa vụ của sỹ quan là phải tuyệt đối phục tùng tổ chức, phục tùng chỉ huy, nghiêm chỉnh chấp hành điều lệnh, điều lệ…” (Luật Sỹ quan quân đội nhân dân Việt Nam), “sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sỹ công an nhân dân phải nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh Công an nhân dân, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên” (Luật Công an nhân dân). Nguyên tắc này đảm bảo hiệu quả quản lý trong lực lượng vũ trang, là yếu tố tiên quyết trong bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Do đó, loại trừ trách nhiệm hình sự cho cấp dưới trong trường hợp thi hành mệnh lệnh của chỉ huy cấp trên góp phần tích cực đảm bảo hiệu quả quản lý trong lực lượng vũ trang nói riêng, trong công tác đảm bảo an ninh, an toàn xã hội nói riêng.
Thay lời kết
Có thể nói, những sửa đổi, bổ sung của BLHS về các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự là một bước tiến trong lịch sử lập pháp hình sự ở nước ta. Theo bà Nguyễn Hải Yến: Các trường hợp bắt giữ người phạm tội; nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ hay thi hành mệnh lệnh cấp trên cũng đã được đề cập trong các văn bản pháp lý chuyên ngành nhưng những văn bản này không có nghĩa vụ giải thích những vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự trong trường hợp những người thực hiện gây ra thiệt hại. Mặt khác, các vấn đề nêu trên cũng đã được pháp luật hình sự nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận như là những tình tiết loại trừ tính chất phạm tội. Vì vậy, việc ghi nhận Chương IV ”Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự” trong BLHS 2015 vừa đảm bảo tính đồng bộ, minh bạch của hệ thống pháp luật vừa góp phần đưa pháp luật Việt Nam tiệm cận hơn với pháp luật hình sự của các quốc gia phát triển trên thế giới.
Theo quy định tại Điều 26, người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên không phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ ba điều kiện sau đây: Một là, mệnh lệnh phải là của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân (quân đội nhân dân và công an nhân dân). Hai là, việc thi hành mệnh lệnh đó là để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Ba là, người thi hành mệnh lệnh đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó. Đáng lưu ý, Điều 26 cũng quy định không loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người chấp hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân mà phạm tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (khoản 2 Điều 421); tội chống loài người (khoản 2 Điều 422) và tội phạm chiến tranh (khoản 2 Điều 423).
Huyền Phan
Bài 15: Cơ sở pháp lý để kiểm sát tố tụng chặt chẽ hơn
(Pháp lý) - Nhìn xuyên suốt các quy định của BLTTHS năm 2015 nhận thấy rõ đã đề cao hơn vai trò của Viện kiểm sát (VKS) và tăng quyền với kiểm sát viên (KSV). Đồng thời quy định rõ ràng trách nhiệm của VKS khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm; thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự.
Vai trò kiểm sát rõ ràng
BLTTHS 2015 đã bổ sung các quy định đầy đủ về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong các giai đoạn tố tụng. Trong giai đoạn khởi tố tại các Điều 159; Điều 160; Điều 161. Trong giai đoạn điều tra tại các Điều 165; Điều 166. Trong giai đoạn truy tố tại các Điều 236; Điều 237. Trong giai đoạn xét xử tại các Điều 266; Điều 267.
Các quy định này nhằm cụ thể hóa điều 107 của Hiến pháp 2013. Theo đó VKS thực hiện quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Khi xét xử các vụ án hình sự, ở các giai đoạn khác nhau, VKS có trách nhiệm thực hiện quyền công tố, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời… BLTTHS cụ thể các quyền hạn của VKS để thực hiện tốt các nhiệm vụ được cụ thể hóa trên.
Ảnh minh họa)
Trách nhiệm kiểm sát xét xử của VKS cũng được quy định rõ ràng. Theo đó, điều 267 quy định rõ hơn việc kiểm sát xét xử. Cụ thể, khi kiểm sát xét xử, VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử vụ án hình sự của tòa án, người tham gia tố tụng, yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật. Đồng thời VKS có trách nhiệm ban hành kháng nghị khi bản án, quyết định của tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, nếu vi phạm ít nghiêm trọng thì VKS ban hành kiến nghị, không ban hành kháng nghị.
Những quy định tại BLTTHS đã cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, cũng như cơ chế bảo đảm Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ. Theo đó, chức năng thực hành quyền công tố được BLTTHS năm 2015 quy định tiến hành từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm mà không phải từ khi khởi tố vụ án như hiện nay với nhiều thẩm quyền như: (1) Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ; phê chuẩn, không phê chuẩn các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của Bộ luật này; (2) Khi cần thiết đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện; (3) Quyết định gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố vụ án hình sự; (4) Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố vụ án; (5) Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong những trường hợp theo quy định của Bộ luật này; (6) Hủy bỏ quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm và các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; (7) Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác để thực hành quyền công tố theo quy định của Bộ luật này nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội.
Tăng quyền của Kiểm sát viên
Thời gian gần đây khi xem xét lại các vụ án oan chấn động, trách nhiệm của kiểm sát viên đã bị đặt ra. Kiểm sát viên góp phần gây ra án oan đã bị khởi tố, điều tra và xét xử các tội danh liên quan đến xâm phạm trật tự tư pháp không còn là chuyện hiếm. Thực trạng đó, một phần là do kiểm sát viên chưa thực hiện đúng đủ trách nhiệm của mình… Để khắc phục hạn chế trong những quy định về vai trò, nhiệm vụ của kiểm sát viên và Viện kiểm sát trong BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 đã có những quy định thay đổi tích cực về kiểm sát viên cũng như vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự.
Cụ thể, Điều 42. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên. Theo đó, kiểm sát viên có nhiệm vụ kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan, người có thẩm quyền. Tại Điều 12 Thông tư liên tịch số 06/2013 của liên ngành Trung ương hướng dẫn một số quy định của BLTTHS về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Trong hơn 03 năm thực hiện Thông tư liên tịch số 06 đến nay thực tiễn đã cho thấy hiệu quả của việc kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, góp phần quan trọng vào việc phát hiện, xử lý nhanh chóng, kịp thời, chất lượng điều tra giải quyết án ngày càng nâng cao. Do đó BLTTHS năm 2015 “luật hóa” chức năng, nhiệm vụ này, đồng thời quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong việc kiểm sát việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm, kiểm sát việc tạm đình chỉ, phục hồi việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, đề ra yêu cầu xác minh... đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng để KSV thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình trong quá trình kiểm sát tin báo.
BLTTHS 2015 đã bổ sung các quy định đầy đủ về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong các giai đoạn tố tụng (ảnh minh họa))
Kiểm sát viên có thể trực tiếp giải quyết và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm. Theo đó, tại điểm c, khoản 3 Điều 145 BLTTHS năm 2015 quy định “Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục”. Đồng thời tại khoản 2 Điều 146 quy định “Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày Viện kiểm sát có yêu cầu thì cơ quan có thẩm quyền đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải chuyển hồ sơ có liên quan cho Viện kiểm sát để xem xét, giải quyết”.
Quy định trên phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của VKS được quy định tại điểm e, khoản 3, Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để VKS thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Kiểm sát quá trình điều tra hình sự chặt chẽ hơn. BLTTHS năm 2003 có quy định các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra như đối chất, nhận dạng, khám xét nhưng không quy định KSV trực tiếp kiểm sát các hoạt động trên của Cơ quan điều tra. Qua thực tiễn thi hành cho thấy các hoạt động điều tra nêu trên có ý nghĩa rất lớn trong việc thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật, giải quyết mâu thuẫn, kiểm tra tài liệu thu thập được làm căn cứ giải quyết vụ án, trong đó đặc biệt là hoạt động khám xét, việc không có KSV trực tiếp kiểm sát nên rất nhiều vụ án đã bị oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Do đó tại các Điều 189, 190, 191, 193 BLTTHS năm 2015 đều quy định trước khi tiến hành đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, khám xét (trừ trường hợp khám xét khẩn cấp) thì Điều tra viên phải thông báo cho VKS cùng cấp để cử KSV kiểm sát. KSV phải có mặt để kiểm sát, nếu vắng mặt thì ghi rõ lý do vào biên bản.
Kiểm sát viên có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo đó, BLTTHS năm 2003 tuy không quy định KSV có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhưng rải rác trong các điều luật cụ thể như hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị hại, người làm chứng, thực nghiệm điều tra đều có quy định cho phép KSV tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp cần thiết. BLTTHS năm 2015 quy định rõ quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra của KSV trong chức năng, nhiệm vụ của KSV. Đồng thời quy định cụ thể các trường hợp KSV được trực tiếp hỏi cung bị can tại Điều 183; lấy lời khai người làm chứng, bị hại, đương sự tại các Điều 186, 187, 188; tiến hành đối chất tại Điều 189.
Việc quy định cụ thể và tăng cường vai trò của VKS và KSV trong hoạt động tố tụng sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để KSV thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Anh Tuấn
Bài 14: Biện pháp giám sát hỏi cung khách quan nhất
(Pháp lý) - Thực tế xảy ra ở không ít phiên tòa, bị cáo thường kêu oan nói mình bị cơ quan điều tra bức cung. Dư luận thì nửa tin nửa ngờ vào cả hoạt động điều tra và vào cả bị cáo trước tòa. Khắc phục điều này, BLTTHS năm 2015 quy định việc ghi âm, ghi hình khi hỏi cung. Đây được đánh giá là biện pháp giám sát khách quan nhất.
Bước tiến quan trọng
Quy định ghi âm, ghi hình hoạt động hỏi cung bị can được cho là một bước tiến vượt bậc, vừa đảm bảo quyền nhân thân cho bị can, bị cáo, tốt cho người bào chữa và có lợi cho chính cơ quan tố tụng.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 183 BLTTHS năm 2015: “Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
Như vậy, việc ghi âm là “bắt buộc” trong các hoạt động hỏi cung của Điều tra viên tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trong trường hợp việc hỏi cung được thực hiện tại địa điểm khác thì bị can hoặc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu điều tra viên thực hiện việc hỏi cung phải ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh đối với việc hỏi cung đó.
Một buổi hỏi cung bị can (ảnh minh họa))
Ngoài việc ghi âm lời khai của bị can, BLTTHS năm 2015 còn quy định việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi lấy lời khai của cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố (khoản 1 Điều 146); khi lấy lời khai của người làm chứng (Điều 187); khi lấy lời khai của bị hại, của đương sự trong vụ án (Điều 188); khi tiến hành đối chất (Điều 189).
BLTTHS cũng quy định về vấn đề ghi âm, ghi hình trong lấy lời khai của người làm chứng. Theo đó, Điều 187 quy định “Việc lấy lời khai của người làm chứng có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh”. Như vậy được hiểu là việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi lấy lời khai của người làm chứng không phải là một nghĩa vụ bắt buộc đối với những người tiến hành tố tụng song người làm chứng vẫn có thể đưa ra yêu cầu để những người tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết. Việc ghi âm, ghi hình có âm thanh với người làm chứng là khuyến khích, là tùy thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất, vào người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người làm chứng nên không có tính bắt buộc như đối với hỏi cung bị can.
Lo lộ trình thực hiện bị chậm?
Để quy định ghi âm, ghi hình đi vào cuộc sống, đòi hỏi sự chuẩn bị kĩ lưỡng của các cơ quan chức năng. Hiện nay, theo Điều 2 Nghị quyết 110/2015, Quốc hội giao Chính phủ đầu tư kinh phí để bảo đảm việc thực hiện các quy định về chỉ định người bào chữa, ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can... Giao Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Viện trưởng VKSND Tối cao, Chánh án TAND Tối cao hướng dẫn trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Giao Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Viện trưởng VKSND Tối cao, Chánh án TAND Tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Nội vụ xây dựng đề án về cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ thể thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can theo quy định của BLTTHS 2015.
Quốc hội cũng giao Bộ trưởng Bộ Công an quyết định cụ thể nơi có điều kiện để thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh hoạt động hỏi cung bị can kể từ 1/7/2016. Chậm nhất đến 1/1/2019 thì thực hiện thống nhất việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can trên phạm vi toàn quốc. Theo tìm hiểu, việc ghi âm ghi hình khi hỏi cung bị can đã được thực hiện thí điểm tại Hà Nội, Bắc Giang.
Trao đổi với chúng tôi về quy định này, Luật sư Hoàng Hướng (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) băn khoăn: Quy định này gắn với rất nhiều quyền lợi của bị can, bị cáo và có mối liên hệ mật thiết với nhiều quy định khác trong BLTTHS 2015. Ngày 1/1/2018 là Bộ luật này có hiệu lực nhưng hiện nay cơ sở vật chất chuẩn bị cho hoạt động này chưa sẵn sàng. Tôi lo ngại rằng, gần đến ngày Luật có hiệu lực, Ủy ban Thường vụ Quốc hội lại phải ban hành riêng một quy định hướng dẫn, tạm hoãn hiệu lực của những quy định tiến bộ này.
Giả sử nếu bị can, bị báo có yêu cầu ghi âm, ghi hình, không có cơ sở vật chất để đáp ứng, thì thực tế sẽ gặp phải những biện giải ra sao từ cơ quan chức năng? Với kinh nghiệm thực tế, tôi e rằng sẽ có những biện giải như máy hỏng, gặp trục trặc… Hiện nay chưa có chế tài đối với những hành vi vi phạm các quy định này. Tôi lo ngại thiếu những chế tài xử lý thật nghiêm thì những quy định này chậm đi vào cuộc sống.
Phan Minh
Bài 13: “Vũ khí” mới chống tội phạm tham nhũng
(Pháp lý) - Điểm mới đặc biệt quan trọng của BLTTHS 2015 là cho phép áp dụng các biện pháp điều tra đặc biệt như nghe điện thoại bí mật, ghi âm, ghi hình bí mật trong quá trình điều tra các vụ án tham nhũng, các vụ án an ninh quốc gia, vụ án phạm tội nghiêm trọng có tổ chức… Quy định mới này kỳ vọng sẽ là “vũ khí” mới tấn công chống tham nhũng hiệu quả hơn.
Sự cần thiết
Ông Nguyễn Hòa Bình (Chánh án TANDTC) đánh giá cao ý nghĩa của các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được quy định trong BLTTHS 2015)
Tham khảo luật tố tụng hình sự của một số quốc gia, trong đó có những quốc gia có những thể chế chính trị giống Việt Nam như Trung Quốc, hay quốc gia trước đây có nền tư pháp giống chúng ta như Nga, Hungary và cả những quốc gia tiên tiến hơn như Đức, Pháp, Mỹ… Tất cả các quốc gia này đều có quy định biện pháp điều tra đặc biệt. Đó là các biện pháp theo dõi bí mật; ghi âm, ghi hình bí mật; chặn và ghi âm các cuộc liên lạc viễn thông; thu thập bí mật dữ liệu điện tử; khám bí mật chỗ ở; sử dụng trinh sát hoặc cộng tác viên bí mật…
Thực tế, Việt Nam đã tham gia nhiều Công ước của Liên Hợp quốc, trong đó có công ước về đấu tranh chống tội phạm tham nhũng, ma túy, chống tội phạm có tổ chức. Chúng ta đã cam kết sẽ luật hóa biện pháp điều tra đặc biệt này, cho nên việc quy định biện pháp điều tra đặc biệt trong BLTTHS là một đòi hỏi tất yếu của việc thực hiện các cam kết quốc tế.
Trước khi thông qua BLTTHS 2015, pháp luật Việt Nam đã có quy định trong một số luật chuyên ngành cho phép áp dụng biện pháp này đối với một số loại tội là các tội xâm phạm an ninh quốc gia và tội phạm ma túy. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hiệu lực pháp lý thì các biện pháp điều tra đặc biệt phải được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Theo đó, Điều 223, Bộ luật quy định về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Theo đó “Sau khi khởi tố vụ án, trong quá trình điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt: Ghi âm, ghi hình bí mật; Nghe điện thoại bí mật; Thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Có ý kiến cho rằng các nhà làm luật Việt Nam mới chỉ thừa nhận những biện pháp điều tra thiết yếu, cơ bản, ngoài ra còn các biện pháp phổ biến nhưng chưa được thừa nhận như vận chuyển có kiểm soát, đưa người thâm nhập tổ chức và tiếp cận cá nhân phạm tội để thu thập chứng cứ... lại chưa được quy định trong BLTTHS.
Theo quy định của BLTTHS sửa đổi 2015, thời điểm để áp dụng biện pháp điều tra đặc biệt là “sau khi khởi tố vụ án hình sự, trong quá trình điều tra”. Khác với các biện pháp điều tra như khám nghiệm hiện trường có thể tiến hành khi khởi tố vụ án, biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ có thể được áp dụng trong giai đoạn điều tra. Mức độ, thời điểm áp dụng, thời hạn áp dụng biện pháp điều tra đặc biệt được quy định rất chặt chẽ trong các điều luật của chương này để một mặt đảm bảo yêu cầu phòng, chống tội phạm, một mặt không lạm quyền, xâm phạm quyền cơ bản của công dân.
Trả lời báo chí về ý nghĩa khi áp dụng biện pháp điều tra đặc biệt, ông Nguyễn Hòa Bình – Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cho rằng: Có thể nói trong nhiều trường hợp, đây là nguồn chứng cứ có giá trị chứng minh tội phạm trực tiếp. Trước đây chúng ta không quy định trong luật nên phải chuyển hóa chứng cứ, trong nhiều trường hợp lại không chuyển hóa được. Như vậy chúng ta đã từ chối một nguồn chứng cứ hết sức thuyết phục. Nếu áp dụng biện pháp điều tra đặc biệt, người phạm tội phải tâm phục, khẩu phục ngay, thậm chí còn thuyết phục ngay cả với dư luận về hành vi phạm tội của đối tượng.
“Vũ khí” mới đấu tranh với tội phạm tham nhũng
BLTTHS 2015 cụ thể hóa một số trường hợp được áp dụng biện pháp điều tra đặc biệt. Theo đó, có thể áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt đối với các trường hợp: Tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền; Tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” (Điều 224).
Trong Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC), Việt Nam đã tham gia. Các quốc gia tham gia cam kết phải áp dụng các biện pháp cần thiết, đủ mạnh để chống lại loại tội phạm này. Theo thống kê, xu hướng áp dụng các biện pháp này của các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng do tính chất, mức độ vi phạm ngày càng nghiêm trọng; thủ đoạn, hành vi phạm tội ngày càng tinh vi; người phạm tội trong các vụ án tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn nên thường tìm mọi cách che giấu hành vi, can thiệp vào quá trình xử lý... Các biện pháp điều tra đặc biệt sẽ chống tội phạm bỏ trốn, ngăn chặn hiệu quả việc tẩu tán tài sản. Khi áp dụng những quy định về biện pháp tố tụng điều tra đặc biệt, nhiều người kì vọng đây là những công cụ sắc bén trong đấu tranh với tội phạm tham nhũng.
Áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng chống tham nhũng (ảnh minh họa))
Để đảm báo tính chặt chẽ của các quy định pháp luật này, BLTTHS 2015 quy định rõ: Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là: “Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu trở lên tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt: Không quá 02 tháng kể từ ngày Viện trưởng Viện kiểm sát phê chuẩn. Trường hợp phức tạp có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra theo quy định của Bộ luật này”. Và việc sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt: “Chỉ được sử dụng vào việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; thông tin, tài liệu không liên quan đến vụ án phải tiêu hủy kịp thời. Và các thông tin, tài liệu này có thể dùng làm chứng cứ để giải quyết vụ án”. Đồng thời về thời điểm hủy bỏ việc áp dụng biện pháp điều tra đặc biệt, được quy định cụ thể từ điều 225 đến điều 228 BLTTHS 2015.
Kết mở
Được kì vọng như một biện pháp có ý nghĩa lớn đối với việc đấu tranh phòng – chống các loại tội phạm nguy hiểm nghiêm trọng, trong đó có tội phạm tham nhũng, nhưng mặt khác các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cũng có những tác động lớn và trực tiếp đến các quyền tự do, quyền cơ bản của công dân do Hiến pháp quy định. Do đó, áp dụng quy định này với cơ quan tố tụng, cần thận trọng bởi liên quan đến số phận pháp lý của con người.
Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là một chế định mới hoàn toàn trong BLTTHS 2015. Ngay từ khi những điều luật được thảo luận và hình thành đã thu hút được rất nhiều ý kiến góp ý sắc sảo của các chuyên gia. Có nhiều ý kiến cho rằng, quy định là tốt nhưng những quy định này mới chỉ ở quy định chung nhất. Để triển khai hiệu quả thì các cơ quan có trách nhiệm phải hướng dẫn cụ thể ngay vì đây là chế định mới. Với nhiệm vụ được giao, Viện Kiểm sát phải tăng cường kiểm sát việc áp dụng những biện pháp này; Tòa án khi xét xử cũng vậy, cần xem xét các chứng cứ có trong vụ án có được thu thập theo đúng quy định hay không?!
- Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 223 BLTTHS 2015) gồm:
+ Ghi âm, ghi hình bí mật;
+ Nghe điện thoại bí mật;
+ Thu thập bí mật dữ liệu điện tử.
- Trường hợp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 224) gồm:
+ Tội phạm xâm phạm ANQG, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền;
+ Tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải do người có thẩm quyền quy định tại Điều 225 ra quyết định và phải được VKSND cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là 02 tháng (kể từ ngày VKS phê chuẩn). Người ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có quyền đề nghị VKSND cùng cấp hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt khi xét thấy thật sự không còn cần thiết.
Nhiều nước đã quy định
Theo VKSND Tối cao, luật tố tụng hình sự nhiều nước như Nga, Đức, Pháp, Mỹ, Úc… đều đã quy định về các biện pháp điều tra đặc biệt. Đó là các biện pháp theo dõi bí mật; ghi âm, ghi hình bí mật; chặn và ghi âm các cuộc liên lạc viễn thông; thu thập bí mật dữ liệu điện tử; khám bí mật chỗ ở; sử dụng trinh sát hoặc cộng tác viên bí mật; kiểm tra giấy tờ; lập chốt giả để kiểm tra giao thông…
Minh Hải
Bài 12: Vai trò, vị trí của người bào chữa được “nâng tầm”
(Pháp lý) - Đến tòa theo dõi hoạt động xét xử, nhiều người đã chứng kiến những thay đổi mới về bố trí sắp xếp vị trí ngồi của kiểm sát viên và người bào chữa. Thay vì vị trí cao - thấp giữa Kiểm sát viên và người bào chữa trước đây, thì nay người bào chữa được ngồi ngang hàng với kiểm sát viên. Đó là biểu hiện bước đầu của những thay đổi tích cực dễ nhìn thấy nâng cao vai trò người bào chữa trong BLTTHS 2015…
Thay đổi từ chỗ ngồi
Từ giữa năm 2016, Chánh án TAND tối cao đã có công văn về việc triển khai thực hiện mô hình phòng xử án theo quy định của BLTTHS 2015 có hiệu lực từ ngày 1/7/2016. Theo đó, mô hình phòng xử án đối với vụ án hình sự thông thường như sau: HĐXX ngồi trên bục cao nhất; thư ký phiên tòa ngồi dưới một cấp, quay lưng vào HĐXX; đại diện VKS và luật sư bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo, các đương sự ngồi đối diện nhau và ở phía dưới HĐXX; thấp hơn nữa là vị trí của những người tham gia tố tụng, người tham dự phiên tòa.
Mô hình phòng xử án đối với vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi như sau: Tất cả người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đều ngồi trên một mặt phẳng. HĐXX ngồi ở giữa; đại diện VKS ngồi ở bên phải HĐXX; người giám hộ, người dưới 18 tuổi, luật sư bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dưới 18 tuổi ngồi đối diện với HĐXX.
[caption id="attachment_184062" align="aligncenter" width="571"] Hình ảnh phiên tòa nơi người bào chữa được ngồi ngang hàng với kiểm sát viên[/caption]
Việc triển khai thực hiện mô hình phòng xử án là hoạt động nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW năm 2005, Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
Điều 72 của BLTTHS 2015 quy định về người bào chữa. Theo đó: “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”. Người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; Bào chữa viên nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.
Quy định về người bào chữa trong BLTTHS 2015 đã có những thay đổi nhất định so với quy định cũ. Cụ thể, trước đây người bào chữa muốn thực hiện hoạt động bào chữa phải xin cấp giấy chứng nhận bào chữa nhưng hiện nay là thủ tục đăng kí bào chữa. Việc chuyển đổi này là một trong những điểm đột phá khi xác lập địa vị pháp lý của người bào chữa trong TTHS. Về bản chất, thủ tục này đã hủy bỏ rào cản lớn, xóa bỏ cơ chế hành chính xin cho giữa người bào chữa với các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Trước đây, quy định về bào chữa viên nhân dân trong BLTTHS 2003 còn chưa cụ thể dẫn đến việc có quy định nhưng không thể thực hiện trong tố tụng. Quy định trong Bộ luật mới đã khắc phục hạn chế này. Cụ thể, khoản 3 điều 72 quy định: “Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình”. Việc quy định như vậy tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của bào chữa viên nhân dân thành hệ thống tích cực, tham gia vào hoạt động bào chữa.
Phòng ngừa khả năng bị ép buộc từ chối bào chữa
Nếu nghiên cứu 3 vụ án oan sai từng được dư luận quan tâm là vụ Nguyễn Thanh Chấn, Hàn Đức Long và Huỳnh Văn Nén, sẽ thấy kết luận chung là, chính vì sự vắng mặt của luật sư hay người bào chữa ngay từ đầu (từ giai đoạn khởi tố vụ án, điều tra vụ án), bị can không có “quyền im lặng”, cho nên mới có tình trạng ép cung, bức cung, nhục hình. Để khắc phục hạn chế về sự thiếu vắng người bào chữa, BLTTHS 2015 quy định cụ thể về quy trình, thời gian mời người bào chữa trong tiến trình tố tụng. Điều 75, BLTTHS 2015 quy định: “Người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn; Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ. Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, bị tạm giữ phải chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào chữa; Trong thời hạn 24 giờ kể khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị tạm giam thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ. Trường hợp người bị tạm giam không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam phải chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào chữa”.
[caption id="attachment_184063" align="aligncenter" width="534"] Sự tham gia của người bào chữa có ý nghĩa quan trọng trong việc ngăn chặn và hạn chế oan sai (ảnh minh họa)[/caption]
Trong thực tế tố tụng có hiện tượng nhiều bị can làm đơn xin từ chối luật sư, nhưng khi ra tòa, lại nói do bị điều tra viên bắt viết đơn với nội dung như vậy. Còn cơ quan điều tra lại nói không ép buộc bị can viết đơn từ chối luật sư… Để hạn chế tình trạng bị ép từ chối luật sư, Điều 77 của BLTTHS 2015 quy định: “Mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý của người bị buộc tội và được lập biên bản đưa vào hồ sơ vụ án, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này. Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ chối. Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này, người bị buộc tội và người đại diện hoặc người thân thích của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Trường hợp thay đổi người bào chữa thì việc chỉ định người bào chữa khác được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 76 của Bộ luật này. Các quy định mới về người bào chữa trong BLTTHS hiện nay kì vọng sẽ giúp nâng tầm vị thế của người luật sư nói riêng và người bào chữa nói chung, tạo bước chuyển lớn trong cải cách tư pháp.
Vẫn lo ngại vì những xung đột…
Về quy định liên quan đến bào chữa viên nhân dân, trong BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể về điều kiện tiêu chuẩn. Để hoàn chỉnh hơn, cần có hướng dẫn cụ thể, tiêu chí, trình tự, thủ tục trở thành bào chữa viên nhân dân.
Mặc dù những quy định về người bào chữa là tiến bộ, nhưng có nhiều ý kiến cho rằng, vẫn còn những hạn chế, làm khó người bào chữa trên thực tế. Điều 73 của BLTTHS 2015 quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Các quyền được quy định theo hướng mở rộng hơn quy định cũ. Theo đó “Người bào chữa có quyền: “…Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can” hay “Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này”. Trong các trường hợp đề cập như trên thì việc người bào chữa thực hiện quyền của mình thì phải được cơ quan có thẩm quyền đồng ý. Điều này thực tế là rào cản, bởi vì hoạt động của người bào chữa quá lệ thuộc vào sự cho phép của cơ quan thẩm quyền, như vậy vẫn còn nặng cơ chế xin cho.
Cũng cùng trong điều 73 của Bộ luật này quy định: “Không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Quy định như vậy làm xung đột với quy định tại điều 19 của BLHS 2015 sửa đổi 2017, theo đó “Người không tố giác là người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa.” Theo đó, người bào chữa vừa có nghĩa vụ phải giữ bí mật thông tin của người được bào chữa, lại vừa có nghĩa vụ tố giác tội phạm theo quy định của BLHS 2015 sửa đổi 2017.
Anh Tâm
Bài 11: Nhiều quy định gia tăng quyền cho Tòa án
(Pháp lý) - Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2015 sửa đổi theo hướng tăng quyền cho Tòa án. Theo đó, tòa án với tư cách là cơ quan được giao thực hiện quyền tư pháp có quyền phán quyết về việc bị cáo phạm một tội danh nặng hơn tội danh mà viện kiểm sát truy tố. Đồng thời tòa án cũng có quyền thu thập chứng cứ khi cần thiết…
Quy định cũ “bó tay” tòa án
Theo quy định tại Điều 196 BLTTHS năm 2003 Toà án không được xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Trong thực tế xét xử có những vụ án mà tòa muốn xét xử tội danh nặng hơn thì phải trả hồ sơ điều tra bổ sung để các cơ quan điều tra, truy tố xem xét lại vụ án. Khi Tòa và Viện có quan điểm vênh nhau, vụ án phải qua nhiều phiên xét xử mà chưa thể tuyên án.
[caption id="attachment_184034" align="aligncenter" width="567"] Bị cáo Nguyễn Quang Tuấn bị VKS tỉnh truy tố về tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS (có khung hình phạt từ bảy đến 15 năm tù). Nhưng tòa lại có quan điểm xét xử bị cáo theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS (có khung hình phạt đến tử hình).[/caption]
Xét xử vụ án Nguyễn Quang Tuấn giết người ở Bình Phước là một ví dụ. Theo đó, qua nhiều phiên tòa mà xét xử chưa xong do 2 cơ quan tiến hành tố tụng “vênh nhau” quan điểm định khung định tội. Theo nội dung vụ án, bị cáo Tuấn và nạn nhân Thái cùng cạo mủ cao su thuê và cùng ở trọ trong chòi của một công ty cao su tại thôn 5, xã Nghĩa Trung, huyện Bù Đăng. Năm 2014, sau khi lấy tiền công, Tuấn, Thái và một số người rủ nhau nhậu, hát karaoke. Đến chiều cùng ngày, Tuấn chở Thái về thì bạn gái Tuấn gọi điện thoại nói té bị thương nên Tuấn mượn xe máy của Thái đi. Do Thái không đồng ý nên hai bên cãi nhau. Tuấn đã dùng dao Thái Lan dắt ở cột chòi đi lên chòi đâm Thái rồi vứt dao cách chòi khoảng 120 m rồi bỏ đi. Bị cáo Nguyễn Quang Tuấn (Bình Phước) bị VKS tỉnh truy tố về tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS (có khung hình phạt từ bảy đến 15 năm tù), nhưng tòa xét xử bị cáo theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS (có khung hình phạt đến tử hình).
Các chuyên gia pháp luật cho rằng, quy định như điều 196 BLTTHS 2003 xung đột với nguyên tắc khi xét xử "thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" và nguyên tắc "xác định sự thật của vụ án" đã được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự. Mặt khác, việc quy định Tòa án phải xét xử theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố cũng không phù hợp với nguyên tắc suy đoán vô tội; từ đó có thể dẫn đến trường hợp vụ án không được xem xét một cách khách quan, toàn diện vì khi xét xử, Hội đồng xét xử chỉ tập trung kiểm tra tài liệu, chứng cứ xem bị cáo có phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố hay không.
Tháo gỡ cho Tòa án
Quy định tại điều 298 BLTTHS 2015 đã có những mở rộng về giới hạn xét xử của tòa án. Theo đó, Tòa án với tư cách là cơ quan được giao thực hiện quyền tư pháp có quyền phán quyết về việc bị cáo đã phạm một tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. Đổi mới quy định về giới hạn của việc xét xử, Điều 298 BLTTHS năm 2015 quy định: “Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử; Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố; Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó”.
Quy định này của BLTTHS năm 2015 phù hợp với Hiến pháp 2013 và tinh thần cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị, đồng thời cũng tháo gỡ không ít khó khăn trong thực tiễn xét xử của Tòa án, bảo đảm sự độc lập của Tòa án trong xét xử, bảo đảm phán quyết của Tòa án phải trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa.
Bổ sung, mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự
Để phù hợp với thực tiễn và trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản hướng dẫn, Điều 268 BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu đối với các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; những vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài.
Thực hiện nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Điều 272 BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự gồm: Vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân; Vụ án hình sự mà bị cáo không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 272 liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại Quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ. Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả tội phạm xảy ra trong địa bàn thiết quân luật.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 phân định rõ thẩm quyền xét xử của Tòa án trong trường hợp bị cáo vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự (Điều 273). Theo đó, trường hợp có thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự; Tòa án nhân dân xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân; trường hợp không thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án.
[caption id="attachment_184035" align="aligncenter" width="576"] BLTTHS 2015 quy định cụ thể Tòa án có quyền trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung và tòa án xác minh, thu thập bố sung chứng cứ (trong ảnh là quang cảnh phiên tòa xét xử vụ đại gia Cao Toàn Mỹ và hoa hậu Phương Nga)[/caption]
Thêm thẩm quyền thu thập chứng cứ
Một trong những điểm mới quan trọng của BLTTHS 2015 là những quy định cụ thể về việc Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung và tòa án xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ. Theo đó, khi xét thấy cần bổ sung tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Thẩm phán chủ toạ phiên tòa yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung. Trường hợp Tòa án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ nhưng Viện kiểm sát không bổ sung được thì Tòa án có thể tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ theo điều 252 BLTTHS: “Tòa án tiến hành việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ bằng các hoạt động: Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; Xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa; Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án;
Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản ngoài các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, cần định giá tài sản quy định tại Điều 206 và Điều 215 của Bộ luật này; trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản; Trường hợp Tòa án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ nhưng Viện kiểm sát không bổ sung được thì Tòa án có thể tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án”. Những quy định này khắc phục hạn chế của BLTTHS 2003 trong thực tế áp dụng và có ý nghĩa quan trọng tăng quyền độc lập cho tòa án khi xét xử.
Anh Tuấn
Bài 10: “Phá thế độc quyền” trong thu thập chứng cứ
(Pháp lý) - Không chỉ cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mới được quyền thu thập chứng cứ mà người bị buộc tội, người bào chữa và một số người tham gia tố tụng khác cũng có quyền thu thập hoặc cung cấp chứng cứ (quy định tại BLTTHS 2015).
Người bào chữa được thu thập chứng cứ
Một nguyên tắc quan trọng trong tranh tụng để tránh oan sai là có bên buộc tội thì cũng có bên gỡ tội. Để có thể buộc tội hay gỡ tội thì đều cần có quá trình thu thập chứng cứ để chứng minh có tội hay vô tội. Tuy nhiên trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 được ban hành thì chưa có quy định rõ ràng trong việc xem xét chứng cứ của bên gỡ tội là người bào chữa hoặc người bị buộc tội. Điều này có thể thấy qua nhiều vụ án.
Một vụ án xảy ra tại TPHCM, bị cáo phạm tội giết người bị mức án chung thân. Gia đình bị hại kháng cáo vì mức án quá nặng, luật sư bào chữa cung cấp chứng cứ tự thu thập, chứng minh thời điểm phạm tội, bị cáo chưa đủ 18 tuổi và yêu cầu hủy án để điều tra lại. HĐXX cho rằng, yêu cầu hủy án của luật sư không có căn cứ.
[caption id="attachment_183975" align="aligncenter" width="527"] Bên muốn gỡ tội trình chứng cứ trước tòa và không nhất thiết phải trình cho cơ quan điều tra trong một vụ án (ảnh minh họa: Người làm chứng trong vụ án đại gia Cao Toàn Mỹ và hoa hậu Phương Nga đang cung cấp chứng cứ cho Tòa)[/caption]
Sau phiên tòa, luật sư ngao ngán nói: Tôi đã bỏ công về quê của bị cáo và tìm hiểu qua nhiều người, nhiều loại giấy tờ pháp lý thì được biết bị cáo bị khai tăng 2 tuổi so với năm sinh thực để đi làm. Tuy nhiên tại phiên tòa HĐXX không phân tích tại sao không chấp nhận chứng cứ do tôi cung cấp mà chỉ nói không xem xét, không có cơ sở để xem xét chứng cứ… Điều này gây tâm lý thiếu tin tưởng vào quyết định cuối cùng của tòa.
Khắc phục vấn đề xem nhẹ chứng cứ do luật sư hay người bào chữa cung cấp, điều 86 BLTTHS 2015 quy định: "Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này qui định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án" và Điều 88 BLTTHS quy định “Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa; Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án; Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này…”.
So sánh nội dung này với Bộ luật TTHS 2003 thì Bộ luật TTHS 2015 mở rộng chủ thể có quyền thu thập chứng cứ là người bào chữa, chứ không chỉ là các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Với việc cho phép người bào chữa tham gia thu thập chứng cứ đã tạo điều kiện để việc phát hiện và xử lý tội phạm được nhanh chóng, hơn nữa góp phần đáng kể trong việc tạo được sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, bình đẳng trong việc tranh tụng tại phiên tòa và có thể nói đây là bước đột phá trong tư duy về cải cách tư pháp trong tố tụng hình sự.
Không chỉ trao quyền, điều luật còn chỉ rõ cách thức mà người bào chữa được quyền sử dụng để thu thập chứng cứ gồm: “Gặp thân chủ, gặp bị hại, người làm chứng, những người có liên quan đến vụ án để hỏi, nghe họ trình bày, đề nghị cơ quan có thẩm quyền cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các tình tiết liên quan đến việc bào chữa”. Trước những quy định này nhiều luật sư kì vọng, sẽ rõ ràng trong trách nhiệm xem xét chứng cứ do luật sư cung cấp, tạo sự dân chủ, minh bạch tại phiên tòa.
Chứng cứ điện tử được ghi nhận và quy định rõ ràng
Trên thực tế đã và đang có rất nhiều vụ án diễn ra trên môi trường Internet, những thương vụ làm ăn xuyên quốc gia, cá độ, đánh bạc qua mạng… Và các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử đã và đang sử dụng những chứng cứ thu thập được trong môi trường này sử dụng là nguồn chứng cứ trong một vụ án hình sự. Tuy nhiên, việc này chỉ được ghi nhận ở những văn bản hướng dẫn dưới luật, cơ sở pháp lý chưa cao. Trong thời đại công nghệ thông tin và truyền thông phát triển như hiện nay, thủ đoạn phạm tội của các đối tượng sử dụng công nghệ cao ngày càng tinh vi thì việc công nhận chứng cứ từ dữ liệu điện tử là một bước tiến trong tố tụng hình sự ở nước ta.
Theo đó, điều 99 BLTTHS 2015 quy định: “Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử; Dữ liệu điện tử được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác; Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử được xác định căn cứ vào cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác.”.
BLTTHS 2015 cũng quy định rõ việc thu thập chứng cứ điện tử, bảo quản phục hồi, phân tích dữ liệu điện tử. Việc chuyển dữ liệu điện tử từ dạng số hóa nhị phân (dạng chuỗi mã hóa bởi số 0 và 1) thành dạng có thể đọc, nghe, nhìn được trước tòa là cực kỳ tiến bộ, bám sát với thực tiễn hiện nay trên toàn thế giới.
Ngoài quy định tiến bộ trên, về nguồn chứng cứ để chứng minh tội phạm hay chứng cứ gỡ tội còn quy định cụ thể, rõ ràng hơn một số nguồn chứng cứ như lời trình bày, biên bản trong hoạt động khởi tố, thi hành án, đã bổ sung thêm các nguồn chứng cứ . Đồng thời việc thu thập phương tiện điện tử và dữ liệu chứng cứ được quy định cụ thể tại Điều 107 bộ luật này.
[caption id="attachment_183976" align="aligncenter" width="410"] Chứng cứ điện tử được quy định cụ thể tại Điều 99 BLTTHS 2015[/caption]
Kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kiểm sát tố tụng
Để chứng minh trong một vụ án hình sự không chỉ đơn thuần là thu thập đầy đủ chứng cứ, tài liệu theo công thức số học, liệt kê mà đỏi hỏi thông qua hoạt động của tri thức, tư duy khách quan, phân tích tổng hợp, logic biện chứng. Vì vậy, sau khi thu thập các chứng cứ thì cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Như vậy, hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ chính là hoạt động của tư duy biện chứng đối với các sự việc khách quan. BLTTHS năm 2015 quy định việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ tại Điều 108.
Theo đó, chứng cứ chỉ được công nhận khi được thu thập theo đúng quy định của pháp luật. Trước đây có hiện tượng lạm quyền của cơ quan điều tra, chủ quan của cơ quan kiểm sát khi thu thập chứng cứ dẫn đến nhiều án oan. Để hoạt động này khách quan, minh bạch, phần quy định về chứng minh, chứng cứ trong BLTTHS 2015 còn cụ thể hơn về vai trò kiểm sát đối với hoạt động điều tra, lập hồ sơ vụ án của điều tra viên. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Kiểm sát viên tăng cường hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động điều tra, lập hồ sơ vụ án của Điều tra viên, đồng thời là căn cứ để Kiểm sát viên thực hiện tốt hơn quyền công tố của mình trong quá trình giải quyết vụ việc hình sự.
Tại khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ “Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”. Vì vậy, đòi hỏi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải kiểm tra đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án.
Minh Hải
Bài 9: Những nguyên tắc mới của Bộ luật TTHS 2015
(Pháp lý) - Những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS 2015 được quy định từ Điều 7 đến Điều 33, Chương II. So với BLTTHS 2003, mặc dù số lượng điều luật quy định về các nguyên tắc trong TTHS có giảm bớt (từ 29 điều xuống còn 26 điều) nhưng BLTTHS 2015 vẫn đảm bảo kế thừa được các nguyên tắc quan trọng cơ bản của BLTTHS 2003 và bổ sung các nguyên tắc mới phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Pháp lý xin giới thiệu về những nguyên tắc mới đáng chú ý trong BLTTHS 2015.
[caption id="attachment_183841" align="aligncenter" width="518"] Lần đầu tiên nguyên tắc suy đoán vô tội đã được chính thức quy định trong BLTTHS 2015 (ảnh minh họa về quang cảnh một phiên tòa)[/caption]
Nguyên tắc suy đoán vô tội
Điều 13 BLTTHS 2015 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.
Có thể nói lần đầu tiên nguyên tắc suy đoán vô tội được chính thức quy định trong BLTTHS 2015. Đây là một quy định tiến bộ là sự cụ thể hóa tinh thần Hiến pháp 2013 về bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội. Nó không chỉ phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất nước mà còn chứng tỏ quyền con người ngày càng được pháp luật trân trọng, bảo vệ.
Đề cập đến tầm quan trọng của nguyên tắc này trong tố tụng hình sự, PGS-TS Nguyễn Thái Phúc cho rằng: Nguyên tắc suy đoán vô tội là nền tảng, thể hiện cô đọng nhất những bảo đảm pháp lý cho quyền bào chữa của bị can. Bởi lẽ người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Họ có thể từ chối khai báo hoặc tham gia vào các hoạt động điều tra nào đó. Lập luận theo kiểu “nếu không chứng minh được sự vô tội của mình có nghĩa là có tội” là trái với suy đoán vô tội vì đã chuyển nghĩa vụ chứng minh từ bên buộc tội sang bên người bị buộc tội.
BLTTHS 2015 rất tiến bộ khi quy định cơ quan buộc tội không chứng minh được tội phạm của bị cáo thì đồng nghĩa với sự vô tội của bị cáo đã được chứng minh và tòa phải tuyên bị cáo không có tội. Suy đoán vô tội được thừa nhận cho đến khi bản án kết tội của tòa có hiệu lực.
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo
Được quy định tại Điều 26 BLTTHS năm 2015. Tranh tụng là việc một bên có quyền biết chứng cứ và lập luận của bên kia đồng thời đưa ra các chứng cứ và lập luận để phản bác. Tranh tụng là một trong những phương pháp tốt nhất chẳng những tìm ra được sự thật của vụ án mà còn đảm bảo được quyền con người trong tố tụng hình sự. Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động xét xử của Tòa án phải đảm bảo sự tranh tụng của những người tham gia tố tụng (người có thẩm quyền tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác) và những người tham gia tố tụng có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án và được quyền tranh luận dân chủ công khai trước phiên tòa.
Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
Trách nhiệm của Tòa án là phải bảo đảm các điều kiện nói trên theo quy định của BLTTHS 2015 để những người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ trong việc tranh tụng. Theo đó bản án, quyết định của Tòa án không chỉ căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ mà còn phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm
Điều 14, BLTTHS năm 2015 quy định: “Không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm”.
Quy định nguyên tắc này, BLTTHS năm 2015 góp phần tích cực trong việc phòng chống oan sai và hạn chế việc cơ quan tiến hành tố tụng quy kết võ đoán đối với người không phạm tội. Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội cũng là sự kế thừa và phát huy mặt tích cực của BLTTHS năm 2003 được quy định tại khoản 4 Điều 107, những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự: “Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án có hiệu lực pháp luật”.
Nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự
Điều 33, BLTTHS 2015 quy định: “Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện kiểm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án”
Như vậy so với nguyên tắc giám sát trong tố tụng hình sự được đề cập tại Điều 32 BLTTHS 2003, nguyên tắc giám sát trong tố tụng hình sự được đề cập trong BLTTHS 2015 có sự điều chỉnh bổ sung. Bên cạnh việc giám sát của các cơ quan Nhà nước, Ủy ban MTTQVN và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử; các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng còn phải thường xuyên tự kiểm tra và thực hiện kiểm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm trong quy trình tố tụng.
Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân
Điều 11 BLTTHS năm 2015 quy định: “Mọi người có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân đều bị xử lý theo pháp luật. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho Nhà nước khác”. Quy định công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác, được xây dựng trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khoản 2, Điều 17 nêu: “Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho Nhà nước khác”.
Quy định mới này thể hiện quan điểm của Nhà nước ta trước trách nhiệm đối với công dân mang quốc tịch Việt Nam. Nguyên tắc này của BLTTHS năm 2015 được thực hiện trong phạm vi quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự và có hiệu lực đối với mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra
Trong tố tụng hình sự, điều tra là một giai đoạn tố tụng đồng thời là hoạt động tố tụng có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Điều tra là hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các hoạt động khác để xác định sự thật vụ án. Với những ý nghĩa như vậy, hoạt động điều tra đòi hỏi phải tiến hành trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật trong đó là các quy định của BLTTHS và các quy định pháp luật nói chung. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra là nguyên tắc mới được bổ sung trong BLTTHS 2015.
Điều 19 BLTTHS 2015 quy định “Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tuân thủ pháp luật khi tiến hành hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này. Mọi hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành khách quan, toàn diện và đầy đủ; phát hiện nhanh chóng, chính xác mọi hành vi phạm tội, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án”.
Các nguyên tắc cũ quan trọng trong BLTTHS 2003 mà BLTTHS 2015 kế thừa như: Đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa; Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật; Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín tài sản của pháp nhân; Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân; Xác định sự thật vụ án; Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; Trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự; Trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; Bảo đảm sự vô tư của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng; Thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm tham gia; Thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử tập thể; Tòa án xét xử kịp thời công bằng công khai; Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo; Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của tòa án; Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự; Bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự; Bảo đảm quyền được khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự; Kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự.
M.T
Bài 8: Những điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự
(Pháp lý) - Phần những quy định chung
Bố sung 5 nguyên tắc mới
Trong phần những quy định chung, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (BLTTHS 2015) đã điều chỉnh nội dung của 25 nguyên tắc trong BL TTHS năm 2003 cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Trong đó, đã bổ sung 5 nguyên tắc mới nhằm đảm bảo tốt hơn quyền con người, quyền công dân gồm: Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nước khác (Điều 11); suy đoán vô tội (Điều 13); không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14); Bảo đảm sự kiểm tra, giám sát trong hệ thống từng cơ quan tố tụng và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 33).
Về cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Chương III)
Chương III - BLTTHS năm 2015 đã mở rộng diện những người tiến hành tố tụng (Cán bộ điều tra, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên (Điều 34); phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp với trách nhiệm và quyền hạn tư pháp cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán (các Điều 36, Điều 37, Điều 41, Điều 42, Điều 44, Điều 45). Đồng thời, BL TTHS năm 2015 đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Cán bộ điều tra (Điều 38); bổ sung quy định về những cơ quan khác và những cơ quan có thẩm quyền tố tụng; Đó là: quy định Cơ quan và Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (bổ sung cơ quan Kiểm ngư là cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra); đặc biệt quy định nhiệm vụ của Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, quyền hạn củacấp trưởng, cấp phó trong cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 35, Điều 39).
Về người tham gia tố tụng
Ngoài những quy định về người tham gia tố tụng trong BLTTHS năm 2003, thì BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm 9 diện người tham gia tố tụng gồm: Người tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; Người bị bắt; Người chứng kiến; Người định giá tài sản; Người dịch thuật; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội.
Điều 55 BLTTHS năm 2015 còn chỉnh lý: “Người bị hại” thành: “Bị hại”; “Người phiên dịch” thành: “Người phiên dịch, người dịch thuật” “Người bảo vệ quyền lợi của đương sự” thành: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự”.
BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một số quyền của tư cách tham gia tố tụng gồm:
Bổ sung một số quyền của người bị buộc tội (các Điều 58, Điều 59, Điều 60, Điều 61); Xác định đầy đủ diện của bị hại và bổ sung một số quyền của họ (Điều 62); Bổ sung một số quyền của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (các Điều 64, Điều 65); Ngoài ra, Điều 66 BL TTHS năm 2015 đã sửa đổi quy định liên quan đến người làm chứng.
Về bào chữa và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
BLTTHS năm 2015 đã mở rộng diện người được đảm bảo quyền bào chữa là “Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt” (Điều 58); BLTTHS năm 2003 có quy định về người bào chữa nhưng chưa đưa ra khái niệm cụ thể về người bào chữa thì BL TTHS năm 2015 đã nêu lên khái niệm cụ thể và bổ sung diện người được tham gia bào chữa là “Người trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý”. Bên cạnh đó, Điều 72 - BL TTHS năm 2015 còn bổ sung quy định về bào chữa viên nhân dân và quy định người không được tham gia bào chữa khi tham gia vụ án đó với tư cách là “Người định giá tài sản”, “Người dịch thuật”.
Đổi mới quy định về cấp đăng ký bào chữa (Điều 78). Đặc biệt quy định mới về việc thông báo bào chữa, từ chối bào chữa hoặc hủy bỏ việc đăng ký bào chữa cho cơ sở giam, giữ người bị bắt, người bị khởi tố, truy tố; Các Điều 73, Điều 79, Điều 80, Điều 81, Điều 82 - BL TTHS năm 2015 đã bổ sung một số quyền và cơ chế bảo đảm người bào chữa thực hiện tốt các quyền theo quy định của pháp luật; Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng: Từ khi khởi tố bị can; trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Trường hợp cần giữ bí mật đối với các tội xâm phạm ANQG thì Viện trưởng VKS có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia từ khi kết thúc điều tra (Điều 74); Điểm mới nữa trong Chương V - BL TTHS năm 2015 là quy định về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự (Điều 83).
Về chứng cứ và chứng minh
Quy định thêm về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử và việc thu thập dữ liệu điện tử (từ Điều 99 đến Điều 107); Quy định chặt chẽ và chi tiết việc xử lý vật chứng (Điều 106).
Về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (Chương VII)
Các trượng hợp bắt đều được quy định cụ thể, gồm: bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ (Điều 109); BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp: Khi có đủ 3 căn cứ quy định tại Khoản 1, Điều 110 thì được giữ người trong trường hợp khẩn cấp; thẩm quyền ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp được bổ sung: Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng. Trong thời hạn 12 giờ từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải ra Lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp và gửi ngay Lệnh cùng hồ sơ, tài liệu để VKS cùng cấp phê chuẩn; Quy định cụ thể những việc cần làm ngay sau khi bắt người hoặc nhận người bị bắt (Điều 114); Quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam và rút ngắn thời hạn tạm giam (Điều 119, Điều 173); Sửa đổi nhằm tăng tính hiệu quả các biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 121, Điều 122, Điều 123). Đồng thời, bổ sung biện pháp tạm hoãn xuất cảnh (Điều 124) và các biện pháp cưỡng chế (Điều 126, Điều 130).
[caption id="attachment_183728" align="aligncenter" width="492"] Phạm Văn Tiến – một Giám đốc Công ty xuất khẩu lao động ở Hà Tĩnh bị cơ quan điều tra bắt giữ với tội danh "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" (ảnh minh họa)[/caption]
Những điểm mới trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự
Về khởi tố vụ án hình sự (Chương IX)
BLTTHS năm 2015 đã bổ sung và quy định rõ các khái niệm về tố giác tội phạm; tin báo về tội phạm; kiến nghị khởi tố (Điều 144); Quy định cụ thể trách nhiệm và thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 145, Điều 146); Sửa thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 147). Trong đó, Khoản 2, Điều 147 quy định: “Đối với các trường hợp vụ việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thời hạn giải quyết không quá hai tháng. Trường hợp chưa kết thúc việc kiểm tra, xác minh theo thời hạn nêu trên thì Viện trưởng VKS cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02 tháng”; Bổ sung việc ra Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 148); Trong Chương này, BL TTHS năm 2015 đã tăng cường trách nhiệm của VKS nhằm không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội (Điều 159, Điều 160, Điều 161).
Về điều tra vụ án hình sự (Chương XVII)
BLTTHS năm 2015 đã quy định chặt chẽ và cụ thể những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp trung ương; Bổ sung và quy định cụ thể một số biện pháp điều tra như: Nhận biết giọng nói (Điều 191); định giá tài sản (Điều 215, Điều 222); Bổ sung các quy định về giám định như: Phân nhóm các vấn đề cần trưng cầu giám định; quy định về thời hạn giám định phù hợp với từng nhóm; xác định giá trị của kết luận giám định đối với việc giải quyết vụ án; giải quyết xung đột các kết luận giám định; bổ sung mới 8 điều luật để quy định các vấn đề cụ thể liên quan đến định giá tài sản trong tố tụng hình sự (Chương XV); Bổ sung một số trường hơp tạm đình chỉ điều tra (Điều 229); BLTTHS năm 2015 đã luật hóa các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong TTHS để cụ thể hóa yêu cầu của Hiến pháp năm 2013, tạo cơ sở pháp lý để thực thi các điều ước quốc tế mà Việt nam là thành viên tham gia (các Điều từ 223 đến Điều 227).
Về khái niệm “tự thú” và “đầu thú” trong tội phạm hình sự
Người “Tự thú” là người có hành vi phạm tội chưa bị phát hiện mà đã ra trình diện, tự nguyện khai báo về hành vi phạm tội của mình; Người “Đầu thú” là người có hành vi phạm tội hình sự, đã bị các cơ quan, tổ chức, cá nhân phát hiện, hoặc cơ quan tiến hành tố tụng truy nã, truy tìm mà ra trình diện và tự nguyện khai báo về hành vi phạm tội của mình; Người tự thú và người đầu thú được hưởng các khoan hồng theo quy định của pháp luật.
Trên đây là một số điểm mới quy định trong phần những quy định chung và trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự của BLTTHS năm 2015. Mong bạn đọc quan tâm nghiên cứu, tham khảo.
Lê Hữu Hồng - Văn phòng Cơ quan CSĐT
(Nguồn: catp.danang.gov.vn)