Thống đốc Ngân hàng nhà nước trả lời chất vấn các Đại biểu Quốc hội
Những chính sách tài chính tín dụng đáng lưu ý được quan tâm nhiều nhất
Chính sách tín dụng cho BĐS và NƠXH: Tại phiên chất vấn Thống đốc sáng 11/11 nhiều đại biểu đã đặt câu hỏi liên quan đến nguồn vốn tín dụng cho bất động sản và nhà ở xã hội. Đại Đỗ Huy Khánh – Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Nai cho biết, so với thị trường bất động sản Trung Quốc, dư nợ tín dụng bất động sản Việt Nam mới chiếm tỷ lệ là 20%, Trung Quốc có thời điểm cao hơn 30%. Như vậy, vẫn còn dư địa cho vay bất động sản ở Việt Nam hiện nay, vậy quan điểm của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về vấn đề này?
Đại biểu Hồ Thị Minh (đoàn Quảng Trị) đề nghị Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết sẽ xử lý như thế nào tình trạng "chạy sô" tăng trưởng của một số tổ chức tín dụng và giải pháp nào để hạn chế rủi ro tín dụng trong lĩnh vực bất động sản?
Phúc đáp các đại biểu, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho hay, hiện dư nợ tín dụng đối với bất động sản khoảng 20 - 21% tổng dư nợ của nền kinh tế. Bà Hồng khẳng định, việc các tổ chức tín dụng cấp tín dụng vào lĩnh vực nào, tỷ lệ bao nhiêu, hoàn toàn phụ thuộc vào sự quyết định của tổ chức tín dụng, tùy thuộc vào nguồn vốn của họ huy động. Hiện 80% tiền gửi ở Việt Nam là ngắn hạn nên khả năng cho vay tiếp tục của thị trường bất động sản cũng cần đảm bảo nguyên tắc để người dân rút tiền. "Ngân hàng Nhà nước không có quy định cấm cho vay bất động sản", bà Hồng nhấn mạnh.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã rất quyết liệt chỉ đạo trong Nghị quyết số 33/NQ-CP để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp kinh doanh và đầu tư vào BĐS.
Trong thời gian vừa qua, NHNN đã có những giải pháp như: Thứ nhất, rà soát các VBQPPL để đưa ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp gặp khó khăn, không trả được nợ. Ban hành Thông tư cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ để các doanh nghiệp BĐS được cơ cấu lại nợ và có thể tiếp cận nguồn vốn vay mới.
Thứ hai, NHNN cũng chỉ đạo các tổ chức tín dụng giảm, miễn lãi suất đối với các dự án, trong đó có các dự án BĐS; sửa đổi Thông tư quy định về việc tổ chức tín dụng mua trái phiếu doanh nghiệp theo hướng đảm bảo thuận lợi hơn đối với lĩnh vực thị trường BĐS;
Đối với phân khúc nhà ở có thu nhập thấp, đây là nguồn lực chủ yếu phải từ NSNN, NHNN đã đề xuất gói 120.000 tỷ đồng, trong thời gian tới sẽ tích cực triển khai; Những đối tượng thuộc đối tượng cho vay nhà ở, hỗ trợ đất ở, hỗ trợ nhà ở của các Chương trình mục tiêu quốc gia, NHNN đã chủ trì tham mưu, ban hành Nghị định số 28/2022/NĐ-CP ngày 26/04/2022 của Chính phủ về chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn từ 2021-2030, giai đoạn 1: từ năm 2021-2025, khi được bố trí nguồn thì những giải pháp hỗ trợ sẽ được thực hiện theo Chương trình.
Quản lý nợ xấu và kiểm soát rủi ro: Đại biểu Trần Hồng Nguyên, Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Thuận đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đánh giá tính hình nợ xấu ở nước ta hiện nay và những giải pháp để giải quyết vấn đề này. Và nếu không xử lý được vấn đề nợ xấu, việc điều hành chính sách tiền tệ sẽ gặp khó khăn gì và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có giải pháp cụ thể nào khi tình huống này xảy ra.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Trần Hồng Nguyên, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, thời gian vừa qua, tình hình nợ xấu có xu hướng tăng cao. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối tháng 9/2024, tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức 4,55%- gần bằng mức cuối năm 2023, tăng so với năm 2022.
Theo Thống đốc, để kiểm soát nợ xấu, Ngân hàng Nhà nước cũng đề ra một số giải pháp. Theo đó, đối với các tổ chức tín dụng, khi cho vay cần thẩm định, đánh giá kỹ lưỡng về khả năng trả nợ của khách hàng vay, đảm bảo kiểm soát nợ xấu mới phát sinh. Còn đối với các nợ xấu hiện hữu, cần tích cực xử lý nợ xấu thông qua việc đôn đốc khách hàng trả nợ, thu nợ, phát mại tài sản của nợ xấu. Ngân hàng Nhà nước cũng đã có khuôn khổ pháp lý đối với các công ty mua bán nợ để có thể tham gia xử lý nợ xấu.
Trong giai đoạn nền kinh tế còn khó khăn, hệ thống các tổ chức tín dụng đã dành nguồn lực tài chính của mình để giảm được nhiều lãi suất cho khách hàng.
Chính sách tiền tệ, lãi suất và ngoại hối: Đại biểu Phạm Văn Hoà (Đồng Tháp) đặt vấn đề: Lượng kiều hối gửi về Việt Nam rất nhiều, chỉ trong năm 2023 là 16 tỷ USD, nhưng người dân gửi đô la Mỹ vào ngân hàng thì lãi suất ở mức 0%. Trong khi đó, ngân hàng vay vốn nước ngoài bằng ngoại tệ, phải trả lãi. Ông Hoà nêu: Sao ngân hàng không vay ngoại tệ của dân để người dân có lợi dù là lãi suất thấp hơn lãi suất vay vốn nước ngoài?
Giải thích lý do áp dụng "công cụ" lãi suất bằng 0% đối với gửi ngoại tệ, Thống đốc NHNN Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết, trước đây, tình trạng tỷ giá của Việt Nam thường xuyên biến động; có những lúc nền kinh tế thặng dư ngoại tệ, tập trung vào các khu vực nhưng lại găm giữ và không bán. Người có thì không bán, người có nhu cầu thì rao muốn mua, gây biến động, bất ổn kinh tế vĩ mô. Từ năm 2016, ngân hàng đã có nhiều giải pháp để ổn định, trong đó có việc đưa lãi suất gửi đô la Mỹ về 0%.
Theo bà Hồng, tỷ giá đô la Mỹ với VNĐ hằng ngày có lên, xuống, nên việc đưa lãi suất gửi đô la Mỹ về 0% giúp hạn chế tâm lý đầu cơ, găm giữ ngoại tệ, giảm tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế. Doanh nghiệp và người dân có ngoại tệ thì bán cho tổ chức tín dụng, và tổ chức tín dụng bán cho nhà nước, nên có lúc dự trữ ngoại hối gia tăng ở mức rất cao. "Nếu giờ ngân hàng nhà nước tăng lãi suất tiền gửi ngoại tệ lên thì nghĩa là người nắm giữ ngoại tệ vừa được lợi về biến động tỷ giá, họ vừa được lãi suất tiền gửi nữa, gây tâm lý chuyển dịch từ VNĐ sang ngoại tệ, thị trường có nguy cơ rủi ro trở lại", bà Hồng nói.
Còn việc vay nợ nước ngoài, theo bà Hồng, bản chất, hiện nay Việt Nam đang thiếu vốn, nên phải huy động nguồn lực từ nước ngoài, thông qua nhiều kênh như đầu tư trực tiếp, gián tiếp... nhưng vẫn phải thực hiện các giải pháp để đảm bảo cân đối vĩ mô.
Giải thích thêm, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, chủ trương của Việt Nam là "hạn chế vàng hoá, hạn chế đô la hoá". Điều này sẽ thúc đẩy người dân, doanh nghiệp có ngoại tệ sẽ bán cho ngân hàng, khi cần thì mua ngoại tệ; chủ trương chuyển từ huy động, cho vay bằng ngoại tệ sang mua và bán ngoại tệ. "Nếu huy động, cho vay bằng ngoại tệ, các tổ chức tín dụng sẽ gặp rủi ro tỷ giá biến động khó lường", bà Hồng nói. Theo bà Hồng, chủ trương áp lãi suất gửi ngoại tệ 0% sẽ thúc đẩy doanh nghiệp và người dân có ngoại tệ chuyển hoá thành VNĐ để đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
Chính sách thúc đẩy Tín dụng xanh (TDX): Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang gia tăng, chính sách tín dụng xanh đang được xem là một trong những giải pháp quan trọng để hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững. Tại kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa XV, chính sách này trở thành chủ đề nóng khi các đại biểu Quốc hội chất vấn Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về chiến lược, cơ chế hỗ trợ, cũng như các biện pháp giải quyết khó khăn mà doanh nghiệp và ngân hàng gặp phải trong việc thực hiện tín dụng xanh.
Đại biểu Đặng Bích Ngọc, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hòa Bình đã hỏi Thống đốc NHNN về các giải pháp để hoạt động tín dụng gắn với mục tiêu bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, ngành Ngân hàng đã có nhiều giải pháp để triển khai TDX và đạt được một số kết quả cụ thể. Nhưng về đánh giá rủi ro đối với môi trường trong hoạt động cấp tín dụng, khó khăn lớn nhất vẫn là chưa có danh mục phân loại xanh.
Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục phân loại xanh, ngành Ngân hàng sẽ quyết liệt chỉ đạo để khi các TCTD cấp tín dụng, cho vay thì đánh giá rủi ro để nâng cao dư nợ tín dụng, giúp việc cấp tín dụng gắn với đánh giá tác động môi trường.
Đại biểu Lê Đào An Xuân, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Phú Yên đã đặt câu hỏi về việc tiếp cận nguồn tín dụng xanh (TDX), đáp ứng kịp thời nhu cầu chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp.
Trả lời về nội dung này, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng khẳng định, bảo vệ môi trường là vấn đề rất quan trọng trong phát triển bền vững và được cả thế giới quan tâm. Đối với Việt Nam, Trung ương, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề này.
Trên cơ sở các Nghị quyết của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết và kế hoạch triển khai của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các Chỉ thị, văn bản để khuyến khích các TCTD tập trung nguồn lực để cấp TDX, triển khai các giải pháp quản lý rủi ro về môi trường khi các TCTD cấp tín dụng, hoàn thiện cơ chế, chính sách để góp phần đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, NHNN đã ban hành các kế hoạch hành động, giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị trong hệ thống, triển khai các chương trình tín dụng đặc thù, góp phần sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tăng trưởng xanh.
Ngoài ra, Thống đốc cũng đề cập đến việc Ngân hàng Nhà nước sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tham gia sâu hơn vào các chương trình tín dụng xanh, đồng thời nghiên cứu các chính sách hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay này. Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng khác để xây dựng một cơ chế hỗ trợ tài chính linh hoạt, nhằm khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực phát triển bền vững.
Nhiều giải pháp ngăn chặn thông tin xấu độc, sai sự thật trên mạng xã hội
Bộ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng tại phiên chất vấn
Tại phiên chất vấn Bộ trưởng Bộ TTTT, nhiều đại biểu đề nghị làm rõ các chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thời đại số và cho rằng người dân đang đứng trước nguy cơ bị xâm phạm quyền riêng tư ngày càng cao và cần có quy định pháp luật rõ ràng để bảo vệ họ trước các nguy cơ trên mạng.
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã đưa ra các giải pháp cụ thể sau:
Về xử lý tin giả và thông tin độc hại: Bộ trưởng cam kết sẽ hoàn thiện các chính sách và khung pháp lý để kiểm soát và xử lý tin giả, đặc biệt là trên các nền tảng mạng xã hội. Bộ sẽ tăng cường hợp tác với các nhà cung cấp dịch vụ Internet và các nền tảng trực tuyến để ngừng phát tán các thông tin sai lệch, đồng thời xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm.
Về bảo vệ dữ liệu cá nhân: Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ xây dựng và hoàn thiện các quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, bảo đảm người dân không bị xâm phạm quyền riêng tư khi tham gia vào các hoạt động trực tuyến. Bộ sẽ tăng cường các biện pháp pháp lý để các doanh nghiệp công nghệ tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về bảo mật dữ liệu.
Về tăng cường giáo dục truyền thông: Bộ cũng đề xuất triển khai các chương trình giáo dục và nâng cao nhận thức về bảo mật thông tin cho người dân, đặc biệt là trong bối cảnh ngày càng có nhiều mối đe dọa từ các hoạt động lừa đảo và tấn công mạng.
Tại phiên chất vấn, đại biểu Nguyễn Duy Thanh (đoàn Cà Mau) đề nghị Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, với vai trò quản lý Nhà nước, bộ trưởng sẽ có phương án như nào để quản lý mạng xã hội, đặc biệt đối với các loại thông tin giả, sai sự thật?
Trả lời vấn đề này, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, đây là vấn đề không chỉ ở Việt Nam mà mang tính toàn cầu. Bộ trưởng Bộ TTTT Nguyễn mạnh Hùng nêu ra ba giải pháp mới, đó là:
Trước tiên là việc hoàn thiện về mặt thể chế. Theo ông Hùng, trước đây mới chỉ xử lý cá nhân vi phạm khi đưa tin sai sự thật. Còn nghị định mới vừa được ký cách đây khoảng một tuần, đưa ra vấn đề xử lý các nền tảng xã hội khi vi phạm pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, trước đây hay nghĩ nhiều đến trách nhiệm quản lý Nhà nước, nhưng theo ông Hùng, ở đây có trách nhiệm lớn đối với các nền tảng xã hội. Họ có không gian, thuê bao riêng với hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ người dùng. “Họ phải có trách nhiệm rà quét, tự động gỡ bỏ thông tin xấu độc, sai sự thật”, ông Hùng cho hay.
Giải pháp thứ ba là, theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, là công tác truyền thông, làm sao để khi lên một không gian mới, không gian số, mọi người có khả năng đề kháng. “Việc đào tạo không chỉ chúng ta mà cho thế hệ tương lai, tức là các em học sinh”, ông Hùng cho hay.
Ngoài ra, để người dân bị ảnh hưởng bởi thông tin sai, xấu độc, có nơi để phản ánh, Bộ Thông tin và Truyền thông đã đưa vào vận hành trung tâm chống tin giả, tin sai sự thật.
Kiến nghị xử lý nghiêm hành vi bịa đặt, xúc phạm danh dự nhân phẩm
Bộ trưởng Bộ Công an Lương Tam Quang nhận định, hậu quả của tin giả, tin sai sự thật là khôn lường, gây nhiều hệ lụy nghiêm trọng, trở thành mối đe dọa lớn đối với tình hình kinh tế-xã hội, thậm chí đe dọa trực tiếp đến chủ quyền quốc gia và an ninh toàn cầu.
Bộ Công an nêu các hành vi vi phạm pháp luật phổ biến trên mạng xã hội hiện nay gồm: Hành vi tạo dựng, làm phát tán, đăng tải, chia sẻ, lưu trữ tin giả, tin sai sự thật; xuyên tạc chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết; xuyên tạc, bôi nhọ, hạ uy tín các tổ chức, cá nhân, gây thông tin hoang mang, ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống sinh hoạt của nhân dân; xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của các tổ chức, cá nhân; thông tin giả, sai sự thật nhằm "câu view, câu like", thậm chí trục lợi, lừa đảo; hành vi phát trực tiếp trên mạng xã hội để phát ngôn, tuyên truyền những nội dung chứa tin giả, tin sai sự thật tác động tiêu cực tới tâm trạng xã hội và tình hình an ninh trật tự.
"Hệ lụy của tin giả làm ảnh hưởng tới phát triển kinh tế cũng rất lớn, đặc biệt đối với thị trường chứng khoán, tài chính, bất động sản là rất rõ nét. Có những tin gây thiệt hại vốn hóa nhiều nghìn tỷ đồng trên thị trường chứng khoán", Bộ trưởng nhấn mạnh.
Về giải pháp, Bộ trưởng Bộ Công an cho biết trước hết, cần nắm tình hình và đấu tranh quyết liệt, xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật đối với các đối tượng thực hiện hành vi vi phạm, gây mất an ninh trật tự trên không gian mạng và mạng xã hội.
Theo Bộ trưởng, hiện nay các đối tượng đưa tin giả, tin sai sự thật theo quy định hiện có thể bị xử lý hành chính, xử lý hình sự. Tuy nhiên, mức xử phạt hiện chưa đủ sức răn đe. Theo quy định hiện nay thì mức xử phạt khung từ 5 - 10 triệu, thời gian qua các cơ quan chức năng xử lý ở khung 7,5 triệu đồng.
Ngoài ra, thiếu những quy định mang tính định lượng cụ thể để xử lý vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi đưa tin giả, tin sai sự thật trên không gian mạng.
"Ví dụ như việc xúc phạm nhân phẩm, danh dự người khác đến mức độ nào được coi là nghiêm trọng, trong khi chỉ cần thực hiện hành vi bịa đặt, lan truyền những điều biết rõ sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người khác đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị không cần xem xét hậu quả xảy ra đối với những hành vi vi phạm mà cần xử lý nghiêm để răn đe", Bộ trưởng công an nhấn mạnh
Giải pháp thứ 2 là đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, tin giả, tin sai sự thật; đồng thời tuyên truyền, định hướng dư luận, ý thức cảnh giác của người dân, nhất là những người sử dụng mạng xã hội để tạo ra được sức đề kháng với tin giả, tin sai sự thật, nhất là những thông tin xuyên tạc, kích động để đấu tranh, vạch trần những thủ đoạn của tội phạm trên không gian mạng.
Bộ trưởng cho biết thêm, thời gian qua khi Bộ Công an hợp tác phòng chống tội phạm với các cơ quan thực thi pháp luật của các nước đều thống nhất đấu tranh, chia sẻ thông tin với nguyên tắc không để cho một tổ chức, cá nhân nào ở nước ngoài có hành vi đưa tin giả, tin sai sự thật gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội, tổ chức, cá nhân của nước khác.
Sẽ xây dựng cơ chế đặc thù về kinh tế báo chí
Đại biểu Tạ Thị Yên (đoàn Điện Biên) chất vấn: Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa báo chí truyền thống và internet, mạng xã hội, ngoài việc tăng cường chất lượng, đẩy mạnh số hóa báo chí thì bài toán kinh tế báo chí, mô hình kinh doanh báo chí sẽ phải giải quyết như thế nào để báo chí truyền thống có thể cạnh tranh và tồn tại, làm tốt vai trò “người lính xung kích” trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước?
Trả lời chất vấn, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, khi kinh tế thị trường phát triển, các doanh nghiệp bắt buộc phải quảng cáo để bán hàng, vì thế chi khá nhiều tiền cho quảng cáo. Các cơ quan báo chí cũng mong muốn được tự chủ tài chính, nhưng sau đó mạng xã hội xuất hiện, 80% quảng cáo trực tuyến, như vậy nguồn thu của báo chí, nhất là các cơ quan báo chí tự chủ tài chính đã giảm đáng kể nguồn thu.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, trong Chỉ thị Thủ tướng Chính phủ ban hành về truyền thông chính sách có yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp phải coi truyền thông là việc của mình. Ngoài chủ động đưa thông tin, có kế hoạch đưa thông tin, có bộ máy đưa thông tin, có ngân sách hằng năm để chi cho truyền thông chính sách và dùng đến ngân sách để đặt hàng báo chí.
Theo Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, đây là một thay đổi, thực tế cho thấy, từ năm ngoái, các cơ quan, chính quyền các cấp bắt đầu tăng ngân sách cho báo chí.
Đặc biệt, trong kế hoạch sửa Luật Báo chí sắp tới, cũng có một mục đề cập đến kinh tế báo chí, trong đó cho phép một số cơ quan báo chí lớn được kinh doanh về nội dung, kinh doanh xung quanh lĩnh vực truyền thông, nhưng kinh doanh để làm báo.
Đặc biệt, trong quy hoạch báo chí, có một nội dung rất quan trọng là Nhà nước tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho 6 cơ quan báo chí chủ lực để trở thành sức mạnh truyền thông; đồng thời trong quá trình sửa luật theo hướng, Chính phủ sẽ xây dựng cơ chế đặc thù về kinh tế báo chí cho các cơ quan báo chí chủ lực.
*
* *
Có thể nói Phiên chất vấn và các giải pháp mà 2 trưởng ngành trong lĩnh vực ngân hàng và thông tin truyền thông nêu ra cho thấy những cam kết mạnh mẽ về tăng cường chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản, lãi suất, quản lý nợ xấu, phòng chống tin giả, bảo vệ an toàn thông tin trên mạng và thúc đẩy phát triển kinh tế báo chí.... Những biện pháp này không chỉ giúp ổn định nền kinh tế , an ninh mạng mà còn bảo vệ quyền lợi người dân và tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội bền vững.