Ảnh minh họa
Khi là một chủ doanh nghiệp, không ít lần bạn nhận được đề nghị từ người thân quen hoặc đối tác để xuất giúp hóa đơn hoặc ký hộ hợp đồng nhằm chứng minh nhu cầu tài chính vay vốn ngân hàng. Điều này thường xảy ra vì sự tương trợ và lòng tin tưởng lẫn nhau trong hoạt động kinh doanh. Rất nhiều chủ doanh nghiệp, đặc biệt là những người mới thành lập doanh nghiệp, thường tác động và đồng ý ký giúp hợp đồng, xuất hóa đơn và lập tài khoản để nhận tiền vay.
Quy trình vay vốn ngân hàng thông qua việc ký hợp đồng và xuất giúp hóa đơn thường bao gồm các bước sau đây: đầu tiên, chủ doanh nghiệp ký hợp đồng mua bán hàng hóa và kèm theo đó là xuất hóa đơn. Tiếp theo, để thanh toán tiền mua hàng hóa theo hợp đồng, chủ doanh nghiệp sẽ vay vốn từ ngân hàng. Ngân hàng sẽ xem xét hồ sơ vay vốn, bao gồm hợp đồng mua bán và hóa đơn, và giải ngân vào tài khoản công ty bán hàng. Khi tiền được chuyển vào tài khoản, người nhờ vay sẽ rút ra và sử dụng.
Ông Quách Thành Lực, Giám đốc Công ty Luật Pháp trị
Theo ông Quách Thành Lực, một luật sư có uy tín, Giám đốc Công ty Luật Pháp trị, Đoàn Luật sư TP Hà Nội, việc rút tiền và sau đó hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng thường không gây hậu quả về mặt hình sự. Tuy nhiên, nếu đến hạn mà người vay không trả được nợ, ngân hàng sẽ tiến hành xem xét lại hồ sơ vay.
Trong trường hhợp ngân hàng phát hiện sự giả mạo trong hợp đồng và hóa đơn cùng với việc người vay không trả được nợ, ngân hàng sẽ chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để xác định có dấu hiệu vi phạm pháp luật hay không. Với nhân viên ngân hàng, họ có thể bị đề nghị xem xét xử lý về vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng và các hoạt động liên quan khác theo quy định tại Điều 206 của Bộ luật Hình sự. Còn với người vay, họ có thể đối mặt với khả năng bị đề nghị xem xét xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 của Bộ luật Hình sự, tuỳ thuộc vào mục đích chiếm đoạt của người vay có trước hay có sau khi ngân hàng giải ngân.
Dẫu vậy, suy nghĩ "ai sai người đó chịu, ai vay thì người đó phải trả" thường là suy nghĩ ngụy biện để trốn tránh trách nhiệm và hoàn toàn không phải là suy nghĩ dựa trên lý trí và phân tích pháp lý về vai trò của người giúp sức cho hành vi phạm tội.
Trong hoạt động kinh doanh, việc tuân thủ pháp luật và đạo đức kinh doanh là cực kỳ quan trọng. Chủ doanh nghiệp cần có hiểu biết rõ về những rủi ro pháp lý có thể phát sinh từ việc tham gia vào những hành vi vi phạm như ký hộ hợp đồng và xuất giúp hóa đơn trong quy trình vay vốn ngân hàng. Bằng cách nắm vững thông tin pháp lý và tư vấn từ luật sư chuyên nghiệp, chủ doanh nghiệp có thể tránh được những hậu quả pháp lý tiềm ẩn và duy trì sự công bằng và bền vững trong hoạt động kinh doanh của mình.
Nghĩ là giản đơn, nhưng hậu quả pháp lý của việc ký hợp đồng và xuất giúp hóa đơn trong quy trình vay vốn ngân hàng là vô cùng nặng nề. Luật sư Lực đã chỉ ra rằng các cơ quan tiến hành tố tụng hiện nay thường thống nhất rằng việc tạo ra điều kiện vật chất cho việc vay tiền thông qua hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng là hành vi có dấu hiệu đồng phạm theo quy định tại Điều 17 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Với nhận thức này, cơ quan cảnh sát điều tra sẽ tiến hành triệu tập chủ doanh nghiệp để lấy lời khai và làm sáng tỏ vai trò, giá trị giúp sức và ý thức của chủ doanh nghiệp trong việc hiểu biết và tiếp nhận ý chí của người phạm tội về việc vay tiền để chiếm đoạt tài sản của ngân hàng. Chủ doanh nghiệp có thể được xem là đồng phạm nếu có chứng minh rằng mặc dù biết người vay sẽ sử dụng hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng giả để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác, nhưng vẫn hỗ trợ trong việc lập hợp đồng và xuất hóa đơn giá trị gia tăng để vay.
Hậu quả pháp lý của người giúp sức trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể rất nặng nề. Nếu số tiền chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên, người giúp sức có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc thậm chí tù chung thân. Ngoài ra, họ cũng phải chịu trách nhiệm dân sự và bồi thường số tiền đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 587 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tuy nhiên, trong trường hợp chủ doanh nghiệp có thể chứng minh rằng họ chỉ tạo điều kiện vật chất cho thủ tục vay tiền và không biết rằng người vay sẽ sử dụng hợp đồng và hóađơn giá trị gia tăng giả để gian dối chiếm đoạt tài sản của ngân hàng, thì chủ doanh nghiệp không được xác định là đồng phạm. Tuy nhiên, điều này không loại trừ khả năng chủ doanh nghiệp bị xem xét xử lý về tội phạm khác như vi phạm quy định về bảo quản và quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại Điều 204 của Bộ luật Hình sự.
Luật sư Lực cũng chia sẻ rằng dù chủ doanh nghiệp có thể tránh được vai trò đồng phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và hậu quả pháp lý nghiêm trọng của nó, nhưng vẫn có thể phải đối mặt với xem xét xử lý về các tội phạm khác. Do đó, để tránh những rủi ro pháp lý, chủ doanh nghiệp cần hiểu rõ pháp luật và tuân thủ nghiêm ngặt trong hoạt động kinh doanh, đồng thời nắm bắt thông tin và tư vấn từ luật sư để đảm bảo sự công bằng và an toàn pháp lý cho doanh nghiệp của mình.