(Pháp lý) - Hiến pháp là văn bản pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đời sống Nhà nước và xã hội; là văn bản giới hạn quyền lực nhà nước, thể hiện quyền lực nhân dân. Có thể nói, trong những năm qua đặc biệt với sự ra đời Hiến pháp 2013, cách thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước nói chung và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói riêng ở nước ta đã có những bước tiến tích cực trong việc phát huy hiệu quả quản lý của Nhà nước và quyền dân chủ của Nhân dân, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa và phát triển những giá trị cốt lõi từ các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện chủ quyền của Nhân dân ở một tầm khái quát mới, sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Điều 2 Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định quan trọng đó là có sự "kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp". Có thể thấy, với quy định mang tính nguyên tắc này, Hiến pháp 2013 đã có sự kế thừa về bản chất và mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy trong Hiến pháp 1992, đồng thời một lần nữa khẳng định tầm quan trọng hơn bao giờ hết của việc kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay. Kiểm soát quyền lực nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhằm đảm bảo cho việc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước hoạt động đúng mục đích, hiệu quả, vì lợi ích của Nhân dân. Nếu việc kiểm soát quyền lực nhà nước không được thực hiện tốt thì quốc gia đó sẽ khó có thể phát triển một cách ổn định và bền vững.
Về kiểm soát quyền lập pháp
Trong các bản Hiến pháp trước cũng như Hiến pháp 2013, chưa có quy định nào về kiểm soát quyền lập pháp của Quốc hội và không xác định một cơ quan chuyên trách nào kiểm soát việc thực hiện quyền lực của Quốc hội. Điều 69 Hiến pháp 2013 quy định “ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Với việc quy định này, có người sẽ cho rằng Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nên Quốc hội cao hơn Chính phủ và Tòa án Nhân dân tối cao, tức là quyền lập pháp sẽ cao hơn quyền hành pháp và quyền tư pháp. Nếu hiểu như vậy là hiểu chưa đúng tinh thần của Hiến pháp 2013. Tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Trong Nhà nước pháp quyền XHCN, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Quốc hội là thiết chế do Nhân dân bầu ra, các cơ quan và cá nhân đứng đầu các quyền hành pháp và tư pháp do Quốc hội bầu ra. Vì thế, Quốc hội được coi như là thiết chế trung tâm, có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước.
Bên cạnh đó, Hiến pháp 2013 đã trao quyền chủ động và độc lập hơn cho các cơ quan nhà nước, đặc biệt là Chính phủ trong thực hiện quyền lập pháp. Hiến pháp 2013 đã quy định Chính phủ có quyền chủ động xây dựng kế hoạch trình dự án, thực hiện quyền trình các dự án luật thì Chính phủ cũng có thể rút lại các dự án đó trong trường hợp do luật định. Trong quá trình làm luật của Quốc hội, Chính phủ tổ chức triển khai, tiếp nhận các phản hồi và thảo luận để hoàn thiện các dự án luật. Mặc dù, Quốc hội có quyền đề xuất và quyết định các sửa đổi dự án luật theo đệ trình của Chính phủ nhưng Chính phủ có quyền thảo luận các đề xuất, ý kiến của Quốc hội để các dự án luật có tính khả thi khi áp dụng. Do vậy, trong quá trình đề xuất, xây dựng dự án luật, cần đề cao trách nhiệm của Chính phủ trong việc tham vấn Quốc hội cũng như nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội nhằm bảo đảm chất lượng của các dự án luật. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, việc kiểm soát hoạt động lập pháp chỉ mang tính một chiều. Mặc dù quá trình xây dựng dự án luật có rất nhiều chủ thể tham gia nhưng có thể thấy cơ bản là do Chính phủ chủ trì thực hiện, vì thế chất lượng của các dự án luật phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng hoạt động của Chính phủ.
Ngoài ra, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp 2013 có quy định về ủy quyền lập pháp. Theo đó, Điều 100 Hiến pháp 2013 quy định “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”. Thực tế, trong thời gian vừa qua, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật gặp rất nhiều bất cập, thậm chí có một số văn bản có dấu hiệu vi hiến. Do vậy, để đảm bảo cho Chính phủ thực thi lập pháp ủy quyền, tránh lạm quyền trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Quốc hội cần tăng cường giám sát nhằm đảm bảo cơ chế về ủy quyền lập pháp được thực hiện hiệu quả.
Về kiểm soát quyền hành pháp
Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Theo đó, Chính phủ có quyền ban hành các chính sách, văn bản độc lập để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Mặc dù Chính phủ là do cơ quan quyền lực nhà nước lập ra nhưng không có nghĩa rằng quyền hành pháp là quyền tái sinh từ cơ quan quyền lực. Quyền hành pháp là một trong ba nhánh quyền lực tạo nên sự thống nhất của quyền lực nhà nước nhưng trong quá trình thực thi quyền lực, quyền hành pháp của Chính phủ luôn phải chịu sự kiểm soát, giám sát tối cao của Quốc hội. Tính chất quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội xuất phát từ tính chất trực tiếp đại diện cao nhất cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của toàn dân. Điều này được Hiến định trong các nội dung sau: Quốc hội “xét báo cáo công tác của Chính phủ”, “quy định tổ chức và hoạt động của Chính phủ”, “bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội”. Còn Chính phủ “chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội”. So với quyền lập pháp và quyền tư pháp, thì quyền hành pháp có đặc trưng cơ bản là “hành động để đưa pháp luật vào cuộc sống”. “Hành động” này chính là việc Chính phủ đề xuất chính sách, pháp luật để Quốc hội phê chuẩn, thông qua. Từ đó Chính phủ lại tổ chức triển khai chính sách, pháp luật đó. Vì vậy, Chính phủ luôn là chủ thể chính bảo đảm hiệu quả hoạt động của các nhánh quyền lực trong cơ cấu quyền lực nhà nước. Trong việc thực hiện quyền hành pháp, mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ còn được thể hiện ở quyền quyết định và hoạch định chính sách. Theo đó, Quốc hội quyết định những chính sách dài hạn, mang tầm định hướng quốc gia, còn Chính phủ quyết định những chính sách ngắn hạn, mang tính chất điều hành các mặt kinh tế, xã hội của đất nước. Khoản 2 Điều 96 Hiến pháp 2013 một lần nữa đã khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ “Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn…” .
Bên cạnh đó, cơ chế kiểm soát quyền lực trong việc thực hiện quyền hành pháp còn thể hiện thông qua việc Quốc hội tham gia vào việc quy định tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm, miễm nhiệm Thủ tướng chính phủ, có quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễm nhiệm, cách chức các Phó thủ tướng, các bộ trưởng…
Về kiểm soát quyền tư pháp
Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta quy định trong toàn hệ thống chính trị, Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp, tức là có chức năng xét xử các vụ án, giải quyết các việc có tranh chấp theo thẩm quyền quy định. Hiến pháp 2013 quy định cơ chế kiểm soát quyền tư pháp từ phía cơ quan lập pháp, thể hiện qua việc Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, lấy phiếu tín nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh do mình bầu, như Chánh án Toàn án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, việc kiểm soát quyền lực này chủ yếu mang tính một chiều giữa cơ quan quyền lực nhà nước với cơ quan tư pháp mà hầu như chưa có chiều kiểm soát ngược lại.
Cơ chế kiểm soát thứ hai đối với kiểm soát quyền tư pháp là từ phía Chủ tịch Nước. Khoản 7 Điều 70 và khoản 3 Điều 88 Hiến pháp 2013 thì Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tich nước bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức theo phê chuẩn của Quốc hội. Thẩm phán các cấp khác do Chủ tịch nước bổ nhiệm theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn và giám sát Thẩm phán quốc gia. Quy định này thể hiện nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước trong Nhà nước pháp quyền, nâng cao vị thế của cơ quan tư pháp với cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp; đảm bảo nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Với vai trò là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tòa án nhân dân thực hiện chức năng kiểm soát việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp theo nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định. Theo đó, Tòa án nhân dân thực hiện quyền sáng kiến lập pháp; kiến nghị sửa đổi, bổ sung luật nếu thông qua hoạt động xét xử thấy văn bản luật trái Hiến pháp, mâu thuẫn với luật khác hoặc không phù hợp với thực tiễn. Ngoài ra, Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính đối với các hành vi hành chính, quyết định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước; các phán quyết về các vi phạm quyền con người…
Ở nước ta, quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều bắt nguồn từ Nhân dân. Cả ba quyền này tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều là những yếu tố tạo nên sự thống nhất của quyền lực nhà nước. Hiến pháp 2013 ra đời là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện bộ máy nhà nước, tạo dựng cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực, bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả.
ThS. Nguyễn Thị Yến (Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh)