Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức Tọa đàm về “Lấy ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi)”
10 vấn đề lớn được tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật Tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi)
Mới đây, tại Hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 5 để thảo luận một số nội dung trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XV, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định cho biết, tại Kỳ họp thứ 6 (tháng 11/2023), Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Ngay sau kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Ủy ban Tư pháp phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan nghiên cứu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, tổ chức Hội thảo, lấy ý kiến một số cơ quan, tổ chức liên quan để có thêm thông tin và cơ sở thực tiễn phục vụ công tác giải trình, tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo Luật. Tại Phiên họp thứ 31 mới đây, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến một số vấn đề lớn về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi).
Dự án Luật cũng đã thể chế hóa quan điểm, chủ trương, Nghị quyết của Đảng, nhất là về cải cách tư pháp và Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết 27); khắc phục những vướng mắc, bất cập của thực tiễn.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định nhấn mạnh, đây là dự án Luật lớn, có nhiều chính sách, quy định mới về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, liên quan đến tổ chức và hoạt động của một số cơ quan (như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Cơ quan Thi hành án dân sự) và liên quan tới nhiều luật khác (như luật tổ chức của một số cơ quan và các luật tố tụng). Có 10 vấn đề lớn của Dự luật được Thường trực Ủy ban Tư pháp xin ý kiến các Đại biểu tại Hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách . Cụ thể:
Thứ nhất, về quy định Toà án thực hiện quyền tư pháp (khoản 1 Điều 3), Thường trực Ủy ban Tư pháp cho rằng, Nghị quyết 27 yêu cầu: “Xác định thẩm quyền của Tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp”. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Tuy nhiên, từ đó đến nay, quy định này chưa được cụ thể hóa nên còn có cách hiểu khác nhau. Thực tiễn công tác xét xử của các Tòa án cũng đòi hỏi cần làm rõ nội dung này. Do đó, Thường trực Ủy ban Tư pháp tán thành cần quy định nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp trong dự thảo Luật, bảo đảm có cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn.
Dự thảo Luật quy định cụ thể nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp, không quy định “nội hàm quyền tư pháp”. Tiếp thu ý kiến của ĐBQH và Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “cơ bản tán thành nội dung quy định Tòa án thực hiện quyền tư pháp đã được tiếp thu, chỉnh lý tại khoản 1 Điều 3”, Thường trực Ủy ban Tư pháp đề nghị quy định nội dung này như dự thảo Luật.
Thứ hai, việc thu thập tài liệu, chứng cứ trong giải quyết vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự và các vụ việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án (Điều 15), Thường trực Ủy ban Tư pháp cho rằng, Nghị quyết 27 yêu cầu: “Nghiên cứu, làm rõ... những trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử”.
Luật hiện hành không quy định phạm vi thu thập chứng cứ của Tòa án. Luật tố tụng quy định các hoạt động/biện pháp thu thập chứng cứ, trong đó luật tố tụng dân sự, hành chính có quy định: nếu đương sự không thu thập được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Từ đó nhiều đương sự không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, dẫn tới nhiều Tòa án quá tải công việc. Vì vậy, cần rà soát để quy định lại cho chặt chẽ việc Tòa án thu thập chứng cứ ngay trong dự thảo Luật.
Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy nếu Tòa án không thu thập chứng cứ trong một số trường hợp thì có thể gặp khó khăn hoặc không giải quyết được vụ án, vụ việc. Mặt khác, việc quy định Tòa án thu thập chứng cứ cần xem xét điều kiện thực tiễn của nước ta về trình độ dân trí, ý thức pháp luật, hoàn cảnh kinh tế của một bộ phận nhân dân…
Vì vậy, tiếp thu ý kiến ĐBQH và Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “yêu cầu chỉnh lý Điều 15 …, trong đó có quy định Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ và trực tiếp thu thập chứng cứ”, Thường trực Ủy ban Tư pháp đề nghị: bên cạnh việc quy định Tòa án yêu cầu, hướng dẫn, hỗ trợ thu thập tài liệu, chứng cứ; kiểm tra, thẩm định tính xác thực của tài liệu, chứng cứ; cần quy định Tòa án trực tiếp thu thập tài liệu, chứng cứ để thể chế hóa Nghị quyết 27 và phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta.
Thứ ba, về đổi mới Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện theo thẩm quyền xét xử (khoản 1 Điều 4), Thường trực Ủy ban Tư pháp nhận thấy, việc đổi mới TAND cấp tỉnh thành TAND phúc thẩm, TAND cấp huyện thành TAND sơ thẩm nhưng nhiệm vụ, quyền hạn của các Tòa án này không thay đổi. Các Tòa án vẫn gắn với đơn vị hành chính cấp huyện, cấp tỉnh. TAND phúc thẩm vẫn xét xử sơ thẩm một số vụ án. Quy định như dự thảo Luật chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết 27; không thống nhất với các cơ quan tư pháp khác ở địa phương. Mặt khác, phải sửa đổi nhiều đạo luật có liên quan, phát sinh chi phí tuân thủ... Vì vậy, tiếp thu Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “đề nghị giữ nguyên quy định hiện hành về Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện”, Thường trực Ủy ban Tư pháp đề nghị giữ nguyên quy định của Luật hiện hành về TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện.
Thứ tư, về Toà án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt (điểm đ khoản 1 Điều 4, Điều 62, Điều 63), Thường trực Ủy ban Tư pháp nhận thấy: Việc thành lập TAND sơ thẩm chuyên biệt Hành chính, TAND sơ thẩm chuyên biệt Sở hữu trí tuệ và TAND chuyên biệt Phá sản (sau đây gọi chung là các Tòa án chuyên biệt) là cần thiết, trong điều kiện số lượng các vụ, việc này ngày càng gia tăng, đòi hỏi đội ngũ cán bộ chuyên sâu đáp ứng yêu cầu thực tiễn và hội nhập quốc tế về tư pháp. Do đó, tiếp thu ý kiến của ĐBQH và Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “cơ bản tán thành việc quy định các Tòa án nhân dân chuyên biệt cụ thể”, Thường trực Ủy ban Tư pháp đề nghị quy định ngay trong dự thảo Luật các Tòa án chuyên biệt cụ thể để phù hợp với khoản 2 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 (TAND gồm TANDTC và các Tòa án khác do luật định).
Thứ năm, về ngạch Thẩm phán: Thường trực Ủy ban Tư pháp tán thành với đề xuất của TANDTC, quy định 02 ngạch Thẩm phán gồm Thẩm phán TANDTC và Thẩm phán. Quy định này cơ bản phù hợp với đặc thù công tác xét xử; khắc phục nhiều vướng mắc, bất cập hiện nay; nâng cao niềm tin của người dân đối với Thẩm phán; khuyến khích Thẩm phán phấn đấu, yên tâm công tác.
Về bậc Thẩm phán: Thường trực Ủy ban Tư pháp tán thành đề xuất giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định bậc Thẩm phán, tiêu chuẩn, điều kiện từng bậc. Tuy nhiên, không nên quy định “xét nâng bậc Thẩm phán…” trong dự thảo Luật. Việc thi nâng bậc hoặc xét nâng bậc Thẩm phán sẽ do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định sau khi Luật này được Quốc hội thông qua. Đồng thời, việc không quy định ngạch Thẩm tra viên Tòa án, ngạch Thư ký Tòa án là chưa thống nhất với Luật Cán bộ, công chức và các luật tổ chức của các cơ quan tư pháp khác. Nghị quyết 27 về cải cách tiền lương yêu cầu: “xây dựng 1 bảng lương chuyên môn nghiệp vụ theo ngạch công chức… không giữ chức danh lãnh đạo”. Vì vậy, Thường trực Ủy ban Tư pháp đề nghị giữ quy định của Luật hiện hành về 03 ngạch Thẩm tra viên Tòa án và 03 ngạch Thư ký Tòa án.
Thứ sáu, về quy định tiền lương, phụ cấp của Thẩm phán, Thẩm tra viên Tòa án, Thư ký Toà án (Điều 142), Luật hiện hành và dự thảo Luật đều quy định Nhà nước có chính sách ưu tiên về tiền lương, phụ cấp đối với Thẩm phán, Thẩm tra viên Tòa án, Thư ký Tòa án. Do đó, Thường trực Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành dự thảo Luật. Việc ưu tiên về lương, phụ cấp đối với các chức danh tư pháp của Tòa án sẽ được xem xét trong quá trình thực hiện cải cách tiền lương, bảo đảm phù hợp với Nghị quyết 27 về cải cách tiền lương.
Thứ bảy, về thành lập các Vụ tại Tòa án nhân dân cấp cao trên cơ sở tổ chức lại các Phòng Giám đốc, kiểm tra hiện nay (Điều 51), Thường trực Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành dự thảo Luật, việc thành lập các Vụ tại TAND cấp cao trên cơ sở tổ chức lại các phòng Giám đốc, kiểm tra là phù hợp với tính chất, số lượng công việc mà các đơn vị này đang đảm nhiệm.
Thứ tám, về nhiệm kỳ Thẩm phán (Điều 100), Thường trực Ủy ban Tư pháp tán thành dự thảo Luật quy định: Thẩm phán TANDTC làm việc đến khi nghỉ hưu; Thẩm phán được bổ nhiệm lần đầu có nhiệm kỳ 05 năm, Thẩm phán được bổ nhiệm lại có nhiệm kỳ đến khi nghỉ hưu. Quy định này bảo đảm thể chế hóa Nghị quyết 27 về “Đổi mới… thời hạn bổ nhiệm,… nhất là đối với đội ngũ Thẩm phán”; đồng thời phù hợp với chức danh Thẩm phán là chức danh tư pháp đặc thù do Chủ tịch nước bổ nhiệm, tạo điều kiện để Thẩm phán thực sự yên tâm công tác, góp phần bảo đảm nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Thứ chín, về mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 2 Điều 96), Nghị quyết 27 yêu cầu: “Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm các chức danh tư pháp”. Thực tiễn công tác xét xử của TANDTC rất cần những chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu về pháp luật chuyên sâu để giải quyết các vụ việc ngày càng phức tạp trong tình hình mới. Do đó, Thường trực Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành dự thảo Luật.
Thứ mười, về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp (khoản 3 Điều 141), đa số Thường trực Ủy ban Tư pháp thấy rằng: tại phiên tòa, việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh là bảo đảm hoạt động thông tin theo quy định của pháp luật; nhưng đồng thời, phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân, góp phần bảo đảm tính tôn nghiêm tại phiên tòa, tạo điều kiện cho Hội đồng xét xử điều hành tốt phiên tòa. Do đó, tiếp thu ý kiến của ĐBQH và Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “yêu cầu nghiên cứu, rà soát nội dung này, bảo đảm tính khả thi, tạo thuận lợi cho các cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình”, Thường trực Ủy ban Tư pháp và TANDTC thống nhất đề xuất chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng bổ sung quy định việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh… trong thời gian tuyên án, công bố quyết định; trường hợp cần thiết thì Tòa án ghi âm lời nói, ghi hình ảnh diễn biến phiên tòa, phiên họp…
Sửa đổi Luật Đấu giá tài sản bám sát 3 nhóm chính sách được Quốc hội thông qua
Gần đây nhất, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét cho ý kiến tại phiên họp thứ 31 . Trước đó, tại Kỳ họp thứ 6 (tháng 10-11/2023), Quốc hội đã xem xét, cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản. Trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Thường trực Ủy ban Kinh tế đã chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp (Cơ quan chủ trì soạn thảo) và Thường trực Ủy ban Pháp luật nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật.
Báo cáo một số vấn đề lớn của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Minh Sơn cho biết, về phạm vi sửa đổi Luật, dự thảo Luật đã bám sát 3 nhóm chính sách đã được Quốc hội thông qua khi đề nghị bổ sung dự án Luật này vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, 2024.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghe báo cáo về một số vấn đề lớn của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản - Ảnh: VGP
Đồng thời, qua tổng kết 5 năm thi hành Luật Đấu giá tài sản cho thấy, các quy định của Luật hiện hành cơ bản vẫn đang phát huy hiệu quả, tính khả thi trên thực tiễn. Theo đó, dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 đã sửa đổi, bổ sung 25 điều, khoản của Luật hiện hành và bổ sung 1 điều mới; các điều, khoản, điểm khác chỉ sửa đổi, bổ sung mang tính kỹ thuật, thay thế từ ngữ, sửa đổi, bổ sung để phù hợp với việc trích dẫn điều, khoản đã được sửa đổi, bổ sung.
Dự thảo Luật sau khi được tiếp thu, chỉnh lý đã sửa đổi, bổ sung 42 điều, khoản của Luật hiện hành; tăng 16 điều, khoản so với dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 nhưng chủ yếu là sửa về mặt kỹ thuật lập pháp, không phát sinh nhiều chính sách mới. Do đó, việc xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản là phù hợp với phạm vi sửa đổi.
Về tài sản đấu giá (Điều 4), Thường trực Ủy ban Kinh tế cho rằng, Luật hiện hành và dự thảo Luật đang quy định theo hướng liệt kê các loại tài sản mà theo pháp luật chuyên ngành quy định phải bán thông qua đấu giá và áp dụng thống nhất trình tự, thủ tục đấu giá cho các loại tài sản này. Bên cạnh đó, pháp luật chuyên ngành cũng quy định tài sản nào, giá trị như thế nào thì bán thông qua đấu giá, tài sản nào, giá trị như thế nào thì không bán thông qua đấu giá, tài sản nào thì đấu giá quyền sử dụng (quyền cho thuê), tài sản nào thì đấu giá quyền sở hữu. Đồng thời, Luật hiện hành và dự thảo Luật đều đã có quy định chung mang tính khái quát đối với tài sản khác mà pháp luật chuyên ngành quy định phải bán thông qua đấu giá để bảo đảm tính bao quát, đầy đủ và dự liệu trước các tài sản có thể phát sinh trong tương lai.
Về các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 9), Thường trực Ủy ban Kinh tế xin tiếp thu bỏ cụm từ "nhằm mục đích trục lợi" tại điểm đ1 khoản 1 Điều 9 đối với hành vi để lộ thông tin về người đăng ký tham gia đấu giá để bảo đảm phù hợp với thực tiễn và tính khả thi của quy định này.
Về điều kiện của người được ủy quyền tham gia đấu giá, Thường trực Ủy ban Kinh tế cho rằng, việc ủy quyền tham gia đấu giá và điều kiện của người được ủy quyền tham gia đấu giá được thực hiện theo quy định pháp luật về dân sự. Dự thảo Luật chỉ quy định việc nghiêm cấm nhận ủy quyền tham gia cuộc đấu giá "để trả giá" cho người tham gia đấu giá khác đối với tài sản mà người nhận ủy quyền cũng là người tham gia đấu giá tài sản đó nhằm bảo đảm tính minh bạch, tránh tình trạng thông đồng, móc nối, dìm giá; trường hợp nhận ủy quyền tham gia đấu giá mà mình cũng là người tham gia đấu giá tài sản đó nhưng không nhằm mục đích "để trả giá" thì không bị cấm.
Tuy nhiên, đối với trường hợp nhận ủy quyền tham gia đấu giá cho từ hai người tham gia đấu giá trở lên đối với cùng một tài sản, Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị tiếp thu bỏ cụm từ "để trả giá" tại điểm d1 khoản 5 Điều 9 nhằm mở rộng hành vi bị nghiêm cấm mà không cần xét đến mục đích "để trả giá" như đối với trường hợp nhận ủy quyền tham gia cuộc đấu giá để trả giá cho người tham gia đấu giá khác mà người nhận ủy quyền cũng là người tham gia đấu giá tài sản đó.
Về chế tài xử lý vi phạm đối với người trúng đấu giá không nộp tiền trúng đấu giá (Điều 70), Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Minh Sơn cho hay, Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị tiếp thu theo hướng bổ sung trường hợp người trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư, quyền khai thác khoáng sản mà vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền trúng đấu giá dẫn đến quyết định công nhận kết quả đấu giá bị huỷ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm bị cấm tham gia đấu giá đối với loại tài sản đó trong thời hạn từ 6 tháng đến 5 năm trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo quy định tại Điều 87 của Luật Đấu thầu năm 2023.
Đây là những tài sản đặc thù, có giá trị lớn, ảnh hưởng lớn đến thị trường bất động sản, chứng khoán, giá cả vật liệu xây dựng… Do đó, việc bổ sung quy định cấm người trúng đấu giá đối với những tài sản này tham gia đấu giá trong thời hạn nhất định tùy theo tính chất, mức độ vi phạm nhằm ngăn chặn các hành vi tiêu cực, gây lũng đoạn thị trường, ngăn chặn tình trạng bỏ cọc hoặc thổi phồng giá trị tài sản để trục lợi trong đấu giá tài sản.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ chưa có quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bỏ cọc, vì vậy đề nghị sửa đổi, bổ sung Nghị định số 82/2020/NĐ-CP hoặc sửa đổi, bổ sung tại dự thảo Luật Đấu giá tài sản về chế tài xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi bỏ cọc với mức xử phạt phù hợp, đủ sức răn đe và ngăn ngừa, tương tự như quy định của Luật Chứng khoán; đồng thời, nếu xác định được gây mất an ninh, trật tự, gây thiệt hại về người và tài sản thì cần thiết phải bổ sung cả chế tài hình sự.
Liên quan đến chế tài xử lý vi phạm đối với người trúng đấu giá không nộp tiền trúng đấu giá (Điều 70), dự thảo Luật mới nhất trình Quốc hội đã bổ sung trường hợp người trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư, quyền khai thác khoáng sản mà vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền trúng đấu giá dẫn đến quyết định công nhận kết quả đấu giá bị huỷ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm bị cấm tham gia đấu giá đối với loại tài sản đó trong thời hạn từ 6 tháng đến 5 năm trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo quy định tại Điều 87 của Luật Đấu thầu năm 2023. Biện pháp trên nhằm ngăn chặn các hành vi tiêu cực, gây lũng đoạn thị trường, ngăn chặn tình trạng bỏ cọc hoặc thổi phồng giá trị tài sản để trục lợi trong hoạt động đấu giá tài sản.
Đồng thời, dự thảo Luật đã bổ sung quy định về cơ quan có thẩm quyền quyết định cấm tham gia đấu giá là cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kết quả trúng đấu giá; quyết định cấm tham gia hoạt động đấu giá phải được gửi cho tổ chức, cá nhân bị xử lý và cơ quan, tổ chức có liên quan, đồng thời gửi đến Bộ Tư pháp và phải đăng tải trên Cổng Đấu giá tài sản quốc gia và giao Chính phủ quy định chi tiết các nội dung này.
Về đấu giá trực tuyến và áp dụng hình thức đấu giá trực tuyến đối với tài sản công (Điều 43a), Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị tiếp thu bổ sung Điều 43a tại dự thảo Luật về đấu giá trực tuyến trên cơ sở luật hóa các quy định về hình thức đấu giá trực tuyến phù hợp với thực tiễn tại Nghị định số 47/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2017/NĐ-CP của Chính phủ; đồng thời quy định đối với trường hợp đấu giá tài sản công được thực hiện bằng hình thức đấu giá trực tuyến thì phải sử dụng Cổng Đấu giá tài sản quốc gia do Bộ Tư pháp xây dựng, quản lý và vận hành nhằm một mặt đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động đấu giá, bảo đảm an toàn, an ninh mạng; mặt khác đây được xem là giải pháp nhằm hạn chế tối đa tình trạng thông đồng, dìm giá, tiêu cực, thất thoát tài sản nhà nước trong hoạt động đấu giá tài sản.
Cần quy định rõ hơn chế tài đối với bỏ cọc trong đấu giá tài sản; trình tự thủ tục đấu giá trực tuyến, những bất cập trong đấu giá khoáng sản…: Tại Hội thảo lấy ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản ( Hội thảo do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức hồi tháng 4 mới đây) , nhiều đại biểu đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn chỉnh hơn một số điều trong Luật Đấu giá tài sản. Trong đó tập trung các vấn đề cần quy định rõ hơn chế tài đối với bỏ cọc trong đấu giá tài sản; trình tự thủ tục đấu giá trực tuyến, những bất cập trong đấu giá khoáng sản…
Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Mai Lương Khôi nhấn mạnh: Luật Đất đai có liên quan rất nhiều đến hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất, do đó việc sửa Luật Đấu giá tài sản để từ đó làm sao cho hoạt động đấu giá được phát triển và đóng góp một cách tích cực với phát triển kinh tế - xã hội
Một số đại biểu đề nghị cần quy định cụ thể hơn về phần trăm tiền đặt trước đối với quyền khai thác khoáng sản và quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư. Do luật hiện hành chưa quy định cơ chế xử lý về mặt tài chính đối với trường hợp bỏ cọc, đặc biệt trong đấu giá khoáng sản, vì thế việc xử lý người trúng đấu giá bỏ cọc phải được thực hiện bằng các hình thức khác chứ không chỉ nâng mức tiền đặt trước. Theo đó, đại diện Bộ Tư pháp kiến nghị cần bổ sung chế tài như phải có chi phí bồi thường và chịu toàn bộ chi phí tổ chức đấu giá. Tuy nhiên, cũng có ý kiến băn khoăn nếu áp dụng chế tài tài chính với trường hợp bỏ cọc trong khi họ đã mất khoản cọc đã đóng khi tham gia đấu giá.
Ông Châu Thanh Việt, Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP. Đà Nẵng kiến nghị bổ sung thêm vấn đề bỏ cọc trong đấu giá tài sản. Theo đó, Luật Đấu giá tài sản quy định tiền đặt trước đối với 2 loại tài sản là khoáng sản và đấu giá quyền sử dụng đất trong trường hợp cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư. Bởi nếu đấu giá trả tiền 1 lần, số tiền đặt trước quy định 20% là rất lớn dẫn đến khả năng bỏ cọc nhiều.
Cũng kiến nghị bổ sung vấn đề bỏ cọc trong đấu giá, Phó Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp Lê Văn Tuấn cho biết, tình trạng đấu giá cao rồi bỏ cọc xảy ra thời gian qua đối với một số trường hợp, trong đó chủ yếu tập trung vào tài sản là quyền sử dụng đất, quyền khai thác khoáng sản và một số loại tài sản khác như tài sản vi phạm hành chính bị tịch thu. Vụ việc đấu giá cao rồi bỏ cọc chiếm tỷ lệ ít trong số những vụ đấu giá thành công, nhưng được dư luận đặc biệt quan tâm. Do đó, ngoài việc hoàn thiện trình tự, thủ tục đấu giá của Luật Đấu giá tài sản, việc rà soát hoàn thiện quy định của pháp luật chuyên ngành quy định cụ thể yêu cầu, điều kiện đối với người tham gia đấu giá. Trong đó, điều kiện về năng lực tài chính, vốn, yêu cầu về năng lực chuyên môn, kỹ thuật đảm bảo người trúng đấu giá sử dụng đất đai, khai thác khoáng sản có đủ năng lực để sử dụng đúng đất đai, khoáng sản theo đúng mục đích của Luật đất đai, luật Khoáng sản, góp phần vào hiệu quả của hoạt động đấu giá tài sản nói chung.
Đại biểu Quốc hội đề xuất tăng lũy tiến tiền cọc: Ngày 21.5 vừa qua, tại kì họp thứ 7, các ĐBQH đã thảo luận cho ý kiến dự thảo mới nhất Luật ĐGTS. Đối với một số tài sản đặc thù, có giá trị lớn có thể tác động đến thị trường chứng khoán, bất động sản, dự thảo Luật quy định rõ hơn: Mức tiền đặt trước tối thiểu là 10% và tối đa là 20% giá khởi điểm. Quy định này nhằm hạn chế tình trạng người đấu giá bỏ cọc, bảo đảm thống nhất với quy định của pháp luật hiện hành về khoáng sản, đất đai, tần số vô tuyến điện… và thực tiễn áp dụng việc đấu giá đối với một số loại tài sản đặc thù này.
Dự thảo Luật đã bổ sung trường hợp đấu giá quyền cho thuê tài sản mà giá khởi điểm được xác định theo đơn giá thuê hằng năm thì tiền đặt trước tối thiểu là 5% và tối đa là 20% giá khởi điểm nhân với thời hạn cho thuê.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng cho rằng, việc nâng mức tiền đặt trước đối với một số tài sản đặc thù như quyền sử dụng đất đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư, quyền khai thác khoáng sản và tài sản khác là không phù hợp vì các tài sản đặc thù này thường có giá trị rất lớn. Theo Báo cáo của Bộ Tư pháp, quá trình triển khai quy định về mức tiền đặt trước từ 5% đến 20% của Luật hiện hành cơ bản phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thu hút được nhiều người tham gia đấu giá.
Như vậy, việc nâng mức tiền đặt trước chưa xử lý triệt để được tình trạng bỏ cọc sau khi trúng đấu giá tài sản mà còn hạn chế số lượng người đủ điều kiện tham gia đấu giá tài sản, nhất là những nhà đầu tư quy mô nhỏ nhưng có tiềm năng; đồng thời, việc xử lý tình trạng người trúng đấu giá “bỏ cọc” phải được xử lý bằng các hình thức khác chứ không chỉ bằng cách quy định nâng mức tiền đặt trước.
"Tuy nhiên trong thời gian tới, đề nghị Chính phủ cần nghiên cứu để hoàn thiện quy định tiền đặt trước theo hướng tăng theo lũy kế sau mỗi bước giá khi sửa đổi toàn diện Luật Đấu giá tài sản nhằm ngăn chặn việc người tham gia đấu giá trả giá cao bất thường trong quá trình đấu giá nhưng sau đó bỏ cọc", Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhấn mạnh.
Cần đảm bảo quyền lợi tối ưu cho người lao động khi sửa Luật Bảo hiểm xã hội
Là một trong những đạo luật lớn - Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi dự kiến sẽ được xem xét thông qua tại kì họp 7 . Tuy nhiên đây là dự án luật khó, phức tạp, tác động đến đông đảo người lao động và người nghỉ hưu, thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội. Bên cạnh đó vấn đề căn cứ đóng BHXH là vấn đề liên quan trực tiếp đến cải cách tiền lương, nên cần được cân nhắc, nghiên cứu kĩ lương và thấu đáo.
Tại buổi họp báo diễn ra trước phiên khai mạc kì họp thứ bảy, trả lời báo chí về việc có thông qua Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 7, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Lâm Văn Đoan cho biết, dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) là dự án luật khó, phức tạp, tác động đến đông đảo người lao động và người nghỉ hưu, thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội. Ủy ban Xã hội đã tiến hành lấy ý kiến các đối tượng chịu tác động, đặc biệt là vấn đề bảo hiểm xã hội (BHXH) một lần. “Thời điểm thông qua luật theo kế hoạch đặt ra phấn đấu sẽ thông qua tại kỳ họp thứ 7. Tuy nhiên, việc xem xét thông qua dự án luật thuộc quyết định của Quốc hội dựa trên căn cứ, cơ sở ý kiến phát biểu thảo luận của đại biểu Quốc hội tại hội trường”, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Lâm Văn Đoan nhấn mạnh.
Liên quan đến vấn đề căn cứ đóng BHXH là vấn đề liên quan trực tiếp đến cải cách tiền lương, theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Lâm Văn Đoan, hiện nay Chính phủ đã gửi báo cáo sang Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Theo đề xuất của Chính phủ, sẽ tính toán, điều chỉnh sao cho bảo đảm quyền lợi tối ưu giữa lúc trước và sau khi cải cách tiền lương, không có khoảng cách quá xa giữa người đang hưởng tiền lương mới được nghỉ hưu và người nghỉ hưu trước ngày 1/7/2024. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Lâm Văn Đoan cũng nêu rõ đây là vấn đề khó, đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu thận trọng. Ủy ban Xã hội đã phối hợp với các cơ quan để tiếp tục nghiên cứu và trình Quốc hội, các đại biểu Quốc hội phương án tối ưu nhất bảo đảm quyền lợi cho người lao động.
Về mức tham chiếu để tính BHXH, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội cho hay theo Nghị quyết 28 thì khi cải cách tiền lương sẽ bãi bỏ mức lương cơ sở. Mức lương này được sử dụng làm căn cứ đóng BHXH, hưởng lương hưu trợ cấp xã hội và nhiều chính sách khác. Nhưng đến ngày 1/7/2024, mức lương cơ sở theo Nghị quyết 28 sẽ bãi bỏ và thay bằng mức điều chỉnh mới gọi là mức tham chiếu. “Hiện Chính phủ đang tính toán các phương án để làm sao mức tham chiếu mới này không thấp hơn mức lương cơ sở. Hiện các cơ quan của Quốc hội cũng đã tiến hành xem xét, tính toán toàn diện vấn đề này. Vì đây là vấn đề tác động rộng rãi tới người lao động và người nghỉ hưu. Do vậy, việc tính tham chiếu cùng với hệ số cụ thể như thế nào tại thời điểm cải cách tiền lương cũng như áp dụng cho những năm tiếp theo cần đòi hỏi tính toán chặt chẽ, sao cho người nghỉ hưu cũng như người đang làm việc được hưởng quyền lợi tối ưu sau khi Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) được ban hành”, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Lâm Văn Đoan cho biết.