
Quang cảnh Kỳ họp
Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi): Đổi mới nguyên tắc lập pháp theo hướng luật chỉ quy định những vấn đề mang tính ổn định, lâu dài, trao quyền cho Chính phủ cụ thể hóa các quy định
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội 2025 đã sửa đổi, bổ sung 21 điều (tăng 4 điều so với dự thảo trình Quốc hội cho ý kiến) và bãi bỏ 17 điều của luật hiện hành.
Để phù hợp và thuận lợi cho việc tiếp tục thực hiện chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, bảo đảm hài hòa về cơ cấu tổ chức với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, điểm mới quan trọng là Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi) không quy định cứng số lượng, tên gọi các cơ quan của Quốc hội. Quy định như vậy là để đáp ứng với thực tế quy mô và khối lượng công việc của các cơ quan của Quốc hội (còn có sự chênh lệch lớn giữa các cơ quan thực hiện và không thực hiện sắp xếp), cần được tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh, để đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu về đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Đáng chú ý, Quốc hội chốt “luật chỉ quy định khung”, trao quyền cho Chính phủ. Theo đó, Quốc hội "chốt" đổi mới nguyên tắc lập pháp theo hướng luật chỉ quy định những vấn đề mang tính ổn định, lâu dài, trao quyền cho Chính phủ cụ thể hóa các quy định.
Tới đây việc xây dựng luật sẽ có những thay đổi căn bản, tập trung vào những vấn đề mang tính ổn định, lâu dài; vào nội dung liên quan đến quyền con người, quyền, nghĩa vụ của công dân, tố tụng tư pháp, các vấn đề có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội, mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và xã hội.

Đại biểu dự kỳ họp
Đối với nội dung quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực, vấn đề mới, có tính kiến tạo phát triển, chưa có thực tiễn kiểm nghiệm, luật chỉ quy định nội dung chính sách có tính nguyên tắc, định hướng. Quốc hội phân quyền cho Chính phủ, cơ quan trong bộ máy nhà nước cụ thể hóa quy định của luật.
Các cơ quan Nhà nước thực hiện phân cấp bảo đảm phù hợp với năng lực tổ chức thực hiện của từng cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương các cấp và kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. Luật cơ bản không "quy định nội dung về thủ tục hành chính, về quy trình, quy chuẩn chuyên môn, kỹ thuật và nội dung có tính biến động cao".
Luật cũng trao quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định tạm đình chỉ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH trong 2 trường hợp: (i) Khi ĐBQH bị khởi tố bị can; (ii) Trong quá trình xem xét, xử lý vi phạm của ĐBQH, có cơ sở xác định phải xử lý kỷ luật từ cảnh cáo trở lên đối với ĐBQH là cán bộ, công chức, viên chức hoặc xử lý bằng pháp luật hình sự mà cơ quan có thẩm quyền (thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) đã có văn bản đề nghị tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH.
Quy định nói trên nhằm cụ thể hóa Quy định số 148-QĐ/TW của Bộ Chính trị về căn cứ tạm đình chỉ công tác trong trường hợp có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng. Bỡi việc xem xét, quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH có ảnh hưởng quan trọng đến ĐBQH nên cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành thận trọng, cân nhắc kỹ, đúng quy trình, thủ tục, làm rõ căn cứ để xác định mức độ vi phạm của ĐBQH trước khi có đề nghị đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định đối với từng trường hợp cụ thể.
ĐBQH được trở lại thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu và khôi phục các lợi ích hợp pháp khi cơ quan có thẩm quyền có quyết định, kết luận về việc không có vi phạm, không xử lý kỷ luật, quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với đại biểu đó hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật tuyên đại biểu đó không có tội hoặc được miễn trách nhiệm hình sự.
Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi) thống nhất quy định tên gọi “Quốc hội họp bất thường” tại khoản 2 Điều 83 của Hiến pháp thành “Kỳ họp không thường lệ”. Theo đó, Quốc hội họp thường lệ mỗi năm hai kỳ. Kỳ họp không thường lệ của Quốc hội được tổ chức khi có yêu cầu của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội để kịp thời xem xét, quyết định các vấn đề cấp bách thuộc thẩm quyền của Quốc hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi): Đổi mới mạnh mẽ cơ chế phân định thẩm quyền, tăng thẩm quyền cho Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ
Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) gồm 5 chương, 32 điều. Luật sửa đổi lần này đã bổ sung một số cơ chế, chính sách mới để đổi mới mạnh mẽ cơ chế phân định thẩm quyền, phân cấp, ủy quyền nhằm kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, thủ tục hành chính, khơi thông nguồn lực cho phát triển, chủ động ứng phó với những biến đổi của tình hình trong nước và quốc tế.
Theo đó, Luật sửa đổi cho phép Chính phủ được thực hiện giải pháp khác với quy định của luật, nghị quyết, pháp lệnh hiện hành trong trường hợp cần huy động các nguồn lực để triển khai chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia, sau đó báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Chính phủ cũng được phép quyết định các chính sách phát triển ngành, vùng, địa phương bảo đảm phù hợp với chủ trương của Đảng, chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và các mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội đã được Quốc hội thông qua.

Các ĐBQH bấm nút thông qua Luật Tổ chức chính phủ (sửa đổi)
Đáng chú ý là thẩm quyền của Thủ tướng, Luật sửa đổi cho phép Thủ tướng quyết định áp dụng các biện pháp cấp bách khác với quy định của pháp luật hiện hành, báo cáo cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Quốc hội trong thời gian gần nhất; trong trường hợp thật cần thiết vì lợi ích quốc gia, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm tính mạng, tài sản của nhân dân. Trường hợp Bộ trưởng không hoàn thành nhiệm vụ, Thủ tướng có quyền kiến nghị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm hoặc có biện pháp chấn chỉnh hoạt động của Bộ đó. Ngoài cơ chế giám sát thông qua bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội, Luật cũng quy định về trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công quản lý.
Về cơ chế giám sát quyền hạn của Thủ tướng, Luật quy định Thủ tướng có trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Luật sửa đổi đã thiết kế rõ nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ là thực hiện theo các quy định của Hiến pháp, pháp luật và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi): Những công việc thuộc thẩm quyền của địa phương phải do địa phương quyết định
Đáng chú ý, Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) tạm thời giữ nguyên HĐND cấp quận, phường trên cả nước, trừ trường hợp những nơi được Quốc hội ban hành nghị quyết cho thực hiện chính quyền đô thị thì sẽ không có tổ chức HĐND. Cụ thể tại Điều 2 Luật quy định chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính là cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND. Trường hợp Quốc hội có quy định về việc không tổ chức cấp chính quyền địa phương tại đơn vị hành chính cụ thể thì chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính đó là UBND.
Việc giữ nguyên mô hình chính quyền địa phương, theo cơ quan soạn thảo dự án Luật là để “tránh hẫng hụt trong vận hành” hệ thống tổ chức chính quyền địa phương cũng như mô hình tổ chức chính quyền địa phương trong quá trình đánh giá, điều chỉnh tổng thể mô hình tổ chức của cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên, để đảm bảo được tiêu chí tinh, gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu quản trị địa phương chuyên nghiệp, hiện đại, minh bạch, bảo đảm trách nhiệm giải trình gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực; Luật sửa đổi có nhiều quy định đẩy mạnh phân cấp phân quyền theo tinh thần, những công việc thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương phải do địa phương quyết định, địa phương tổ chức thực hiện và tự chịu trách nhiệm.
Cụ thể, tại Chương III của Luật sửa đổi quy định phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương các cấp phải bảo đảm nhiều nguyên tắc không trùng lặp, chồng chéo về nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan Nhà nước ở Trung ương và địa phương, giữa chính quyền địa phương các cấp và giữa các cơ quan, tổ chức thuộc chính quyền địa phương. Luật nêu rõ chính quyền địa phương tự chủ trong việc ra quyết định, tổ chức thi hành và tự chịu trách nhiệm trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền; được phân cấp, ủy quyền thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền theo quy định.

ĐBQH thảo luận tại tổ Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi)
Về phân cấp, UBND cấp tỉnh, cấp huyện được phân cấp cho cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND cấp mình hoặc UBND, chủ tịch UBND cấp dưới. Cơ quan phân cấp chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của việc phân cấp và bảo đảm các điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn phân cấp, đồng thời có trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi): Nhiều đột phá trong qui trình xây dựng pháp luật, lập pháp chủ động tại một kỳ họp thay vì hai kỳ họp
Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi) có 9 chương và 72 điều, bảo đảm bám sát, thể chế hóa đầy đủ định hướng đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật theo Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Kết luận số 119-KL/TW của Bộ Chính trị cũng như yêu cầu đổi mới tư duy xây dựng pháp luật; bảo đảm đồng bộ, thống nhất với nội dung sửa đổi, bổ sung của các Luật được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp này.
Đây là đạo luật được đánh giá có nhiều đột phá trong quy trình xây dựng pháp luật, với nhiều nội dung rất mới. Trong đó nổi bật là quy định về thời gian Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo luật, nghị quyết tại một kỳ họp thay vì 2 kỳ họp như quy định của Luật hiện hành. Trường hợp nếu dự thảo luật, nghị quyết chưa được thông qua, Quốc hội xem xét, quyết định lùi thời điểm thông qua để tiếp tục hoàn thiện, trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp tiếp theo hoặc trình lại.

Kết quả biểu quyết thông qua Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi)
Theo đó, quy trình lập pháp đã được thay đổi theo hướng cơ quan trình chủ động xây dựng, trình dự án ở bất kỳ thời điểm nào trong năm: (i) Trường hợp sau khi xem xét, cho ý kiến, UBTVQH thấy rằng dự án luật đã được chuẩn bị kỹ, có chất lượng tốt, có thể trình Quốc hội xem xét, thông qua tại một kỳ họp Quốc hội thì mới sắp xếp đưa vào Chương trình kỳ họp; (ii) Trường hợp dự án còn nhiều vấn đề, chưa đạt yêu cầu để trình Quốc hội thông qua thì chưa đưa vào Chương trình kỳ họp để các cơ quan tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện.
Đối với dự thảo luật, nghị quyết dự kiến được thông qua tại một kỳ họp nhưng chưa được thông qua thì theo đề nghị của UBTVQH, Quốc hội sẽ xem xét, quyết định lùi thời điểm thông qua để tiếp tục hoàn thiện, trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp tiếp theo hoặc trình lại. Luật sửa đổi đã thiết kế cụ thể trình tự xem xét, thông qua dự thảo luật, nghị quyết tại các Điều 39, Điều 40, và Điều 41 theo quy trình tại một kỳ họp và kỳ họp tiếp theo, bảo đảm chặt chẽ. Việc đổi mới theo hướng này nhằm bảo đảm chất lượng của việc soạn thảo các dự án trình Quốc hội, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động lập pháp, đẩy nhanh tiến độ ban hành luật, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng, nhận xét: “Việc đổi mới của Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi) nhằm bảo đảm chất lượng của việc soạn thảo các dự án trình Quốc hội, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động lập pháp, đẩy nhanh tiến độ ban hành luật, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn”.