Kinh nghiệm áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự tại Nhật Bản và đề xuất cho Việt Nam

13/03/2024 11:12

(Pháp lý) - Các quan hệ tranh chấp dân sự luôn biến động thay đổi theo sự phát triển của kinh tế - xã hội khiến cho các văn bản quy phạm pháp luật chưa kịp thời thay đổi để phù hợp với thực tế. Do đó, án lệ dần trở thành một nguồn pháp luật quan trọng khi giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên, việc áp dụng án lệ trên thực tế còn gặp nhiều vướng mắc. Từ góc nhìn kinh nghiệm của Nhật Bản, bài viết đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống án lệ dân sự, nâng cao hiệu quả áp dụng án lệ giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam.

Tổng hợp các án lệ về hôn nhân và gia đình

Ảnh minh hoạ

Kinh nghiệm áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự tại Nhật Bản

Án lệ tại Nhật Bản được xem là quan điểm pháp luật mà Tòa án tối cao đã áp dụng trước đó. Việc xét xử của Tòa án cấp dưới vi phạm án lệ mà Tòa án tối cao đã ban hành có thể bị hủy. Tuy nhiên, việc xét xử của Tòa án cấp dưới trong các vụ việc chưa có án lệ của Tòa án tối cao thì có thể được tham khảo để giải quyết những vụ án tượng tự và có ý nghĩa như một án lệ. Tuy các phán quyết của Tòa án tối cao hay của Tòa án cấp dưới đều là án lệ nhưng giữa chúng có sự chênh lệch trong việc áp dụng giải quyết các vụ việc trên thực tế.

Tòa án tối cao Nhật Bản có hai vai trò liên quan đến ban hành các án lệ là sửa chữa sai lầm trong xét xử của Tòa án cấp dưới để giải quyết quyền lợi của đương sự và thống nhất việc giải thích áp dụng pháp luật. Án lệ đã giải quyết mục đích thống nhất việc giải thích áp dụng pháp luật trong khi xét xử các vụ việc dân sự, tạo ra sự ổn định về mặt pháp luật, bình đẳng giữa các đương sự.

Thứ nhất, kinh nghiệm về cơ quan chuyên trách về án lệ tại Tòa án tối cao

Án lệ của Tòa án tối cao Nhật Bản được lựa chọn dựa trên quyết định của Ủy ban án lệ (theo quy chế Ủy ban án lệ tháng 9/1947) bao gồm: phần nội dung quyết định, phần trích yếu án lệ và phần điều khoản tham chiếu. Ủy ban án lệ của Tòa án tối cao Nhật Bản là một tập thể gồm có 06 Thẩm phán của Tòa án tối cao là ủy viên, có ban thư ký gồm các thẩm tra viên (là những người có tư cách Thẩm phán) và nhân viên Văn phòng Tòa án tối cao. Ủy viên Ủy ban án lệ được lựa chọn từ 03 Hội đồng xét xử nhỏ (Hội đồng gồm 05 Thẩm phán), mỗi Hội đồng xét xử nhỏ chọn 02 Thẩm phán. Ủy ban án lệ họp định kỳ mỗi tháng một lần (10 lần/năm). Ban thư ký gồm có 41 Thẩm tra viên Tòa án tối cao, trong đó có 01 Thẩm tra viên trưởng, 20 Thẩm tra viên làm về dân sự, 10 Thẩm tra viên làm về hình sự, 10 Thẩm tra viên làm về hành chính. Thẩm tra viên trưởng và các thẩm tra viên phụ trách dân sự, hành chính, hình sự tham dự các phiên họp của Ủy ban án lệ tùy theo lĩnh vực tương ứng.

Đối với những bản án hoặc quyết định có khả năng trở thành án lệ thì Thẩm tra viên phụ trách phải thực sự hiểu được tầm quan trọng các quan hệ tranh chấp mà bản án đó điều chỉnh, nghiên cứu để biên soạn nội dung quyết định, trích yếu án lệ và điều khoản tham chiếu. Phần nội dung quyết định sẽ ghi ngắn gọn, rõ ràng xem Tòa đã quyết định đối với sự việc gì. Phần trích yếu án lệ ghi tóm tắt những quy tắc mà bản án đưa ra (những quy tắc này phải là những quy tắc về mặt pháp luật) và trình Ủy ban án lệ xem xét tại phiên họp hàng tháng. Trước khi trình ra Ủy ban án lệ thì trong nội bộ các Thẩm tra viên phải có sự xem xét các nội dung trong các phương án đề xuất đã đủ chưa? Ủy ban án lệ chỉ tóm tắt lại những nội dung trong bản án đã có chứ không được viết thêm những vấn đề khác vào.

Các đề xuất liên quan đến vụ việc dân sự sẽ được đưa ra nghiên cứu nội bộ trong phòng Thẩm tra viên gồm toàn thể thẩm tra viên dân sự, hành chính sau đó tổng kết lại. Khi biên soạn nội dung quyết định, trích yếu án lệ thì Thẩm tra viên phải dành nhiều thời gian để nghiên cứu thật chi tiết trên mặt chuyên môn. Như vậy, có thể nói án lệ là bản án, quyết định đã được tuyển chọn một cách khách quan và có tính chuyên môn cao thông qua việc đòi hỏi Thẩm phán của Tòa án tối cao và các Thẩm tra viên đã phản ánh ý chí của tập thể Tòa án khi tuyển chọn các án lệ.

 

undefined

Tòa án tối cao Tokyo (ảnh minh hoạ)

Thứ hai, kinh nghiệm quy định tiêu chuẩn lựa chọn án lệ dân sự

Tiêu chuẩn lựa chọn án lệ đăng trong tuyển tập án lệ dân sự của Tòa án tối cao được thể hiện như sau:

(1) Xét đoán về những vấn đề quan trọng liên quan đến Hiến pháp, pháp luật chưa có tiền lệ ở Tòa án tối cao;

(2) Án lệ đã có thời Đại thẩm viện 1 nhưng là xét đoán xuất hiện lần đầu trong Tòa án tối cao;

(3) Bản án, quyết định của Đại hội đồng xét xử (Đại pháp đình) làm thay đổi tiền lệ của Tòa án tối cao;

(4) Trường hợp tình tiết vụ việc đóng vai trò quan trọng như lẽ công bằng, sự thừa nhận mặc nhiên, dần dần trở thành án lệ;

(5) Trường hợp nhận thấy cần đăng tải vì quan trọng đặc biệt đối với án lệ, quyết định tình huống (trên nguyên tắc vốn không đăng trong tuyển tập án lệ).

Thứ ba, kinh nghiệm tuyển tập án lệ của tòa án tối cao

Định kỳ 06 tháng, Tòa án tối cao Nhật Bản in ấn, công bố “Tuyển tập án lệ Dân sự, Hình sự” và lưu hành trên thị trường (khoảng 1500 bản). Mỗi cuốn tuyển tập án lệ có khoảng 200 án lệ. Bên cạnh đó, án lệ cũng được công bố mang tính cấp báo trong vòng một tháng trên Thời báo Tòa án tối cao (Tập sách nhỏ khoảng 10 trang lưu hành trên thị trường). Để giúp cho việc sử dụng, tra cứu tiện lợi hơn, các tạp chí án lệ cũng sẽ đăng các án lệ có kèm ý kiến ngắn trong vòng nửa năm sau đó. Án lệ còn được đăng trên tạp chí chuyên môn “Thời báo chức danh tư pháp” phát hành định kỳ (sau này sẽ được xuất bản như sách đơn hành gồm án lệ cả năm) kèm theo nội dung giải nghĩa chi tiết về ý nghĩa, nội dung do thẩm tra viên Tòa án tối cao phụ trách vụ án thực hiện.

Các bản án, quyết định tuy không được chọn đăng trong tuyển tập án lệ nhưng xét thấy có những nội dung quan trọng, có giá trị tham khảo để áp dụng trong thực tế cũng sẽ được tổng kết trong các kỷ yếu Dân sự, Hình sự của Tòa án tối cao phát hành nội bộ (khoảng 500 bản mỗi kỳ). Trong các ấn phẩm của Tòa án tối cao về án lệ chỉ đăng toàn văn án lệ của Tòa án tối cao mà không có phần giải nghĩa. Trong tạp chí án lệ của Tòa án tối cao thì chỉ đăng những án lệ quan trọng của Tòa án tối cao. Còn những án lệ có tính chất tình huống được đăng trên “Tập án lệ” của Tòa án tối cao mà không được đăng trong “Tuyển tập án lệ”. Tập án lệ không được bán trên thị trường mà chỉ là tài liệu tham khảo trong nội bộ Tòa án tối cao. Tuy nhiên, một số án lệ tình huống mà Tòa án tối cao cho rằng quan trọng cũng được đăng trong “Tuyển tập án lệ”.

Việc công khai án lệ còn được đăng tải trên mạng internet để tạo sự dễ hiểu cho người dân, nâng cao được tính minh bạch trong nền tư pháp cho người dân, tăng được niềm tin cũng như sự hiểu biết đối với nền tư pháp, giúp cho người dân dễ dàng dự kiến được kết quả xét xử. Vì vậy, Tòa án tối cao đã mở trang web của Tòa. Các bản án của Tòa án tối cao đã được đăng tải toàn văn trên trang chủ của Tòa án tối cao từ 20 năm trước đây, đồng thời án lệ của Tòa án cấp dưới đặc biệt là những án lệ liên hệ tới tài sản trí tuệ cũng được đăng tải trên trang chủ của Tòa án tối cao. Vì được đăng công khai trên mạng internet nên Tòa cần phải bảo vệ bí mật đời tư của các đương sự trong vụ án. Tuy nhiên, khi đăng tải án lệ bằng bản giấy thì không xem trọng yếu tố đời tư (không cần ẩn danh). Chỉ riêng những loại bản án mà pháp luật quy định không được công khai thì mới phải ẩn danh. Có việc quy định như vậy là vì thực tế người mua các tạp chí án lệ bằng giấy thường là những nhà chuyên môn nên việc bảo vệ đời tư không quan trọng nhiều.

Thứ ba, kinh nghiệm về hiệu lực của án lệ

Tiêu chí xét tính ràng buộc của án lệ dựa trên hình thức phân biệt án lệ giải thích, án lệ quy phạm, án lệ hướng dẫn (án lệ ví dụ điển hình). Tuy nhiên, án lệ quy phạm hoặc án lệ giải thích có tính thực tế cao khi tham khảo để giải quyết một vụ việc cụ thể khác.

Trong trường hợp Thẩm phán ra phán quyết trái với án lệ của Tòa án tối cao mà bị kháng cáo thì phán quyết đó có thể bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy. Tại Nhật Bản, sự nhìn nhận, tư duy về sự ràng buộc của án lệ cũng có sự lệch pha nhỏ. Có quan niệm xem trọng yếu tố giải thích pháp luật, có quan niệm xem trọng yếu tố tình tiết. Trường hợp Thẩm phán giải quyết vụ việc tương tự, giống với tình tiết trong án lệ của Tòa án tối cao thì không nhất thiết bị ràng buộc vào án lệ đó mà có thể nêu cách giải thích của cá nhân để ra phán quyết. Các Thẩm phán của Tòa cấp dưới bình đẳng với Thẩm phán Tòa án tối cao nên đều có quyền giải thích luật liên quan trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Hơn nữa, mặc dù nói rằng án lệ của Tòa án tối cao nhưng tương lai có thể bị thay đổi do đó việc cho phép Thẩm phán Tòa án cấp dưới không tuân theo án lệ mà dựa trên những đánh giá, nhận định của mình để đưa ra phán quyết. Đây cũng là nguồn để phát triển án lệ.

Thứ tư, kinh nghiệm sửa đổi án lệ

Các án lệ không có sức mạnh ràng buộc về mặt pháp luật nên Thẩm phán có thể dựa trên niềm tin của mình để ra các bản án khác với án lệ. Trong trường hợp muốn sửa đổi án lệ của Tòa án tối cao thì vụ việc phải đưa ra Đại hội đồng 15 Thẩm phán để xét xử. Tuy nhiên, rất khó để có thể sắp xếp được việc xét xử bằng Hội đồng 15 Thẩm phán. Vì vậy, trong trường hợp thấy cần phải sửa án lệ, các Hội đồng 05 Thẩm phán của Tòa án tối cao sẽ giải thích thu hẹp phạm vi của án lệ trước đó. Đây là trường hợp sửa án lệ mà không qua thủ tục sửa án lệ.

Thứ năm, kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật dân sự dựa vào án lệ

Tại Nhật Bản, nhiều phán quyết của thẩm phán có tính chất mở rộng hơn so với các quy định của pháp luật. Thông qua các án lệ, nhiều quy định pháp luật thay đổi, các nguyên tắc mới được xác lập. Điển hình như lĩnh vực giao dịch bảo đảm. Trong lĩnh vực bảo đảm, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được quy định chủ yếu trong Bộ luật Dân sự được ban hành vào năm 1896 và có hiệu lực vào năm 1898. Sau hơn 120 năm tồn tại, Bộ luật Dân sự Nhật Bản cũng có những sửa đổi nhất định nhằm phù hợp với thực tiễn, lần sửa đổi gần nhất đó là vào năm 2018 và có hiệu lực vào năm 2022. Các án lệ đã công nhận các biện pháp bảo đảm mới so với quy định của Bộ luật dân sự, xem tài sản bảo đảm là các quyền yêu cầu hình thành trong tương lai, phân biệt chuyển nhượng có bảo đảm và hợp đồng mua bán có chuộc lại.

Thực trạng áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự tại Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Cho đến trước năm 2005, án lệ không được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt nam với tư cách là một nguồn luật mà chủ yếu được đề cập ở góc độ nghiên cứu học thuật. Trước bối cảnh hội nhập và sự thay đổi nhanh chóng của tình hình kinh tế - xã hội đặt ra yêu cầu cần có án lệ để bổ trợ cho các văn bản quy phạm pháp luật. Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, chỉ đạo: “Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục chỉ đạo: “Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, áp dụng án lệ…”. Đây chính là kim chỉ nam để phát triển án lệ trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Theo từ điển Luật học, án lệ là “bản án đã được tuyên hoặc một sự giải thích, áp dụng pháp luật được coi là tiền lệ làm cơ sở để các thẩm phán sau đó có thể áp dụng trong các trường hợp tương tự”[1]. Điều 1 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP đã ghi nhận khái niệm án lệ: “Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”.

Quốc hội Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa vấn đề phát triển án lệ tại Việt Nam như: Luật Tổ chức Tòa án nhân dân; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố tụng Dân sự; Luật tố tụng hành chính ghi nhận án lệ là một nguyên tắc giải quyết vụ việc khi chưa có luật áp dụng. Tuy nhiên, cho đến khi Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 quy định về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ mà hiện nay đã được thay thế bởi Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 thì việc lựa chọn, công bố án lệ mới thực sự có bước phát triển.

Từ ngày 06/4/2016 (là ngày công bố 06 án lệ đầu tiên) cho đến nay, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã công bố 70 án lệ, trong đó: 17 án lệ về Hình sự, 04 án lệ về Hành chính, 33 án lệ về Dân sự, 05 án lệ về Hôn nhân gia đình, 09 án lệ về Kinh doanh, thương mại và 02 án lệ về Lao động[2]. Nhìn chung, các án lệ đã được công bố đều nhận được sự đánh giá cao, nội dung án lệ đã khắc phục được các khiếm khuyết của pháp luật, tạo được sự thống nhất trong xét xử, tính ổn định, minh bạch trong các phán quyết của Tòa án.

Sau khi án lệ được công bố, các Tòa án đã chủ động nghiên cứu để viện dẫn án lệ trong việc giải quyết các vụ việc tại Tòa án trong đó có các vụ việc dân sự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự nhau phải được giải quyết như nhau, qua đó đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Tính đến ngày 19/11/2023, có 1629 bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án các cấp đã viện dẫn, áp dụng án lệ[3]. Đây là minh chứng cho thấy án lệ đã thực sự đi vào đời sống pháp lý, phát huy được hiệu quả của mình. Tuy nhiên, việc áp dụng án lệ trong giải quyết các vụ việc nói chung và các vụ việc dân sự nói riêng cũng còn nhiều bất cập cần được giải quyết.

Thứ nhất, số lượng vụ việc áp dụng án lệ để giải quyết không nhiều. Từ khi án lệ đầu tiên được thông qua vào ngày 06/4/2016 cho đến nay (11/2023), chỉ mới có 1629 bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án viện dẫn, áp dụng án lệ, trong đó, có 1018 bản án, quyết định trong lĩnh vực dân sự[4]. Mặc dù tỷ lệ áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc trong lĩnh vực dân sự so với các lĩnh vực khác là rất cao nhưng con số này vẫn quá khiêm tốn so với số lượng bản án, quyết định mà Tòa án nhân dân các cấp đã ban hành từ khi án lệ đầu tiên được công bố cho đến nay.

Thứ hai, chưa có hướng dẫn rõ ràng về thuật ngữ “nh huống pháp lý tương tự” tại Điều 8 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng.

Khoản 2 Điều 8 của Nghị quyết quy định rằng: “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án.”. Tuy nhiên việc đánh giá một vụ việc có “tình huống pháp lý tương tự” với án lệ hay không còn mang nhiều ý chí chủ quan của thẩm phán. Có quan điểm cho rằng các vụ án có “tình huống pháp lý tương tự” với án lệ phải là vụ việc có tình tiết tương tự với án lệ, lệ thuộc vào chính hoàn cảnh làm phát sinh án lệ. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, sự tương tự cần được hiểu rộng hơn.

Trên thực tế, việc xem xét, so sánh một vụ việc nói chung và vụ việc dân sự nói riêng có “tình huống pháp lý tương tự” với án lệ hay không còn nhiều khó khăn, vướng mắc và chưa có sự thống nhất trong xét xử. Ví dụ, bản án số 20/2017/DS-PT ngày 24/02/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ giải quyết vụ việc dân sự có tình tiết người Việt Nam định cư ở nước ngoài bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở Việt Nam và nhờ người ở trong nước đứng tên nhận chuyển nhượng giúp mình. Tuy nhiên, khi giải quyết vụ việc này, Tòa án không áp dụng Án lệ số 02/2016/AL do có sự khác biệt ở tình tiết người Việt Nam định cư ở nước ngoài không trực tiếp giao dịch với người chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà nhờ chính người đứng tên dùm giao dịch. Trong khi đó, tại Án lệ số 02/2016/AL, người Việt Nam định cư ở nước ngoài lại trực tiếp giao dịch với bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ngược lại, trong bản án số 208/2017/DS-PT ngày 29/8/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng giải quyết vụ việc dân sự có tình tiết người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Việt Nam, nhờ người ở trong nước đứng tên và cũng không trực tiếp giao dịch với bên chuyển nhượng. Tại bản án này, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng Án lệ số 02/2016/AL để giải quyết vụ việc. Cá nhân tác giả đồng ý với quan điểm áp dụng của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tại Bản án số 208/2017/DS-PT ngày 29/8/2017 bởi lẽ việc “trực tiếp giao dịch” hay không không làm thay đổi tình huống pháp lý mà án lệ muốn hướng tới, đó là việc người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài là người thực chất bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng nhưng lại không đứng tên trên giấy tờ mà nhờ một người khác ở Việt Nam đứng tên dùm. Cũng chính vì vậy mà tác giả cho rằng, khi xem xét sự tương tự của vụ việc đang giải quyết với án lệ cần nhìn nhận ở khía cạnh bao quát hơn, cần phải xác định tình tiết nào là tình tiết cơ bản của vụ án và tính chất tương tự của các tình tiết.

Thứ ba, nhiều trường hợp các Thẩm phán áp dụng tinh thần, nội dung của án lệ để giải quyết các vụ việc nói chung và các vụ việc trong lĩnh vực dân sự nói riêng nhưng không viện dẫn án lệ trong bản án, quyết định của mình. Nhiều vụ án có tình huống án lệ, giải pháp pháp lý tương tự như nội dung án lệ, mặc dù Thẩm phán có phân tích, nêu tình huống pháp lý và giải pháp pháp lý tương tự tại phần “Nhận định của Tòa án”, nhưng trong nội dung bản án, quyết định được ban hành thì Thẩm phán không ghi rõ áp dụng và viện dẫn án lệ cụ thể, trong khi có vận dụng nội dung của án lệ để giải quyết vụ án.

Ví dụ: Bản án số 635/2023/DS-ST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa Ngân hàng TMCP Q với bà A và ông L1, Tòa án có viết trong phần nhận định và phần quyết định như sau: “Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, bà A và ông L1 còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay”. Thẩm phán đã áp dụng nội dung của Án lệ 08/2016/AL về việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên trong bản án lại không viện dẫn hay nêu ra căn cứ pháp luật áp dụng là từ Án lệ 08/2016/AL.

Thứ tư, hiệu lực của án lệ so với các loại nguồn pháp luật khác chưa cao.

Điều 6 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

2. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng.

Có thể thấy rằng, trong lĩnh vực dân sự, án lệ chỉ được áp dụng khi quan hệ tranh chấp đó không có văn bản quy phạm pháp luật quy định, không có tập quán và không thể áp dụng tương tự pháp luật. Điều này thể hiện án lệ chưa thực sự được đề cao trong hệ thống các loại nguồn pháp luật áp dụng để giải quyết các vụ việc dân sự.

Một số lưu ý khi kiểm sát biên bản phiên tòa trong giải quyết vụ, việc dân  sự, vụ án hành chính

Phiên toà xét xử một vụ án dân sự (ảnh minh hoạ)

Từ thực trạng áp dụng án lệ giải quyết các vụ việc dân sự ở Việt Nam và kinh nghiệm của Nhật Bản, nhóm tác giả kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện hệ thống án lệ, nâng cao hiệu quả áp dụng án lệ như sau:

Thứ nhất, xây dựng khung pháp lý vững chắc cho hoạt động áp dụng án lệ ở Việt Nam.

Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giải thích pháp luật thông qua án lệ trong giải quyết các vụ việc dân sự chưa có quy pháp pháp luật điều chỉnh, nhóm tác giả đề xuất chỉnh sửa như sau:

Một là, sửa đổi, bổ sung Hiến Pháp Việt Nam năm 2013 như sau: Bổ sung cụm từ “phát triển án lệ” vào Khoản 3 điều 104. Tiếp đó, cần cụ thể hóa những điều kiện, cách thức, quy trình, thủ tục giải thích Hiến pháp và pháp luật của Tòa án trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

Hai là, bổ sung quyền giải thích pháp luật của Tòa án vào Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. Nhóm tác giả đồng tình với việc bổ sung quyền giải thích pháp luật của Tòa án tại điểm đ khoản 1 Điều 3 Dự thảo 5 Luật Tổ chức tòa án nhân dân sửa đổi[5] đang được lấy ý kiến.

Ba là, cần xem án lệ là nguồn luật có giá trị áp dụng chỉ sau Văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ hai, Nâng cao chất lượng bản án để có nguồn phát triển án lệ bền vững. Việc nâng cao chất lượng án lệ cần chú ý đến một số khía cạnh sau:

Một là, tình huống pháp lý tương tự

Việc xác định tình huống pháp lý tương tự như thế nào, trường hợp nào bắt buộc áp dụng án lệ chưa được đề cập rõ ràng trong Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP. Ta cần xác định rõ tiêu chí áp dụng án lệ vào vụ việc cụ thể và quy định mẫu bản án thống nhất cho việc lập luận, viện dẫn án lệ vào vụ việc cụ thể. Cần làm rõ tình huống pháp lý tương tự và số hoá các tình tiết này vào phần mềm trợ lý ảo để giúp Thẩm phán giải quyết vụ việc một cách chính xác, nhanh chóng, hiệu quả. Bên cạnh đó cần có những hướng dẫn cách thức viện dẫn, áp dụng án lệ như: ban hành bản án mẫu có áp dụng án lệ để Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân tham khảo.

Hai là, về nội dung

Bên cạnh đó cần hoàn thiện tiêu chí tuyển chọn án lệ theo hướng một án lệ phải đáp ứng các yêu cầu: (1) Có giá trị làm rõ quy định của pháp luật, cách thức áp dụng các quy định có sẵn hoặc đưa ra những quy tắc xử sự mới cho các vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể; (2) Khuôn mẫu, chuẩn mực; (3) Có giá trị định hướng thống nhất pháp luật trong xét xử; (4)Tính phức tạp của tình huống; (5) Tính tiêu biểu cho quan hệ tranh chấp; (6) giải pháp của án lệ đưa ra có tính phù hợp, thuyết phục.

Thứ ba, tăng số lượng án lệ từ nguồn phát triển đa dạng

Một là phát triển nguồn án lệ đương nhiên. Các quyết định giám đốc thẩm và tái thẩm của Tòa án nhân dân tối cao; Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao cần được xem là các án lệ đương nhiên, không cần qua thủ tục công bố như tại Nhật Bản.

Thứ tư, rút ngắn quy trình, thời gian có hiệu lực của án lệ.

Thời hạn áp dụng 30 ngày kể từ ngày được công bố như hiện nay là còn dài, quy trình còn nhiều bước dẫn đến chưa đáp ứng kịp nhu cầu giải quyết các quan hệ tranh chấp dân sự hiện nay. Nhóm tác giả đề xuất đơn giản hóa quy trình từ 05 bước như hiện nay thành quy trình 03 bước bao gồm: (1) đề xuất, (2) thông qua, (3) công bố và có hiệu lực ngay.

Thứ năm, đào tạo nâng cao năng lực áp dụng án lệ trong giải quyết các vụ việc dân sự cho Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án

Cần nâng cao chất lượng Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm về kỹ năng áp dụng án lệ. Tăng cường phúc lợi, có chính sách thu hút người tài vào làm việc tại Tòa án các cấp. 

Kết luận

Án lệ đã giải quyết kịp thời các tranh chấp phát sinh khi chưa có luật điều chỉnh, giải thích pháp luật, bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật. Án lệ cũng là cơ sở để cơ quan lập pháp sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, án lệ còn là nguồn tài liệu hữu ích, thiết thực trong việc giảng dạy, đào tạo các chức danh tư pháp. Với ý nghĩa thiết thực của án lệ, bài viết đã cung cấp góc nhìn khái quát về thực trạng áp dụng án lệ giải quyết các vụ việc dân sự tại Việt Nam. Từ kinh nghiệm của các quốc gia châu Á có mối quan hệ gần gũi, bài viết đã đề xuất một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về án lệ, phát triển hệ thống án lệ dân sự nói riêng và án lệ nói chung, nâng cao hiệu quả việc áp dụng án lệ trong giải quyết các vụ việc dân sự./.

Quang Thị Thùy Ly - Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, TPHCM

Bùi Lê Hiếu - Học viện Tòa án

 


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Viện khoa học pháp lý Bộ tư pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp và NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.13.

[2] Theo số liệu cập nhật tháng 11/2023 có 70 án lệ đã được công bố trên website:  https://anle.toaan.gov.vn , truy cập gần nhất ngày 19/11/2023

[4] https://congbobanan.toaan.gov.vn/0t15at1cvn/Tra-cu-ban-an , truy cập gần nhất ngày 19/11/2023

[5] Tòa án nhân dân tối cao (2023), Dự thảo 5 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi, https://vbpq.toaan.gov.vn/webcenter/portal/htvb/chi-tiet-vbdt?dDocName=TAND314001, truy cập ngày 24/11/2023

 

 

Bạn đang đọc bài viết "Kinh nghiệm áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự tại Nhật Bản và đề xuất cho Việt Nam" tại chuyên mục Khoa học Pháp Lý. Mọi chi tiết xin liên hệ số hotline (0915.999.467) hoặc gửi email về địa chỉ (toasoan@phaply.vn).

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin