Từ những bài học quản lý rủi ro của hệ thống NHTM Mỹ đến bài học cho hệ thống ngân hàng Việt Nam

04/01/2021 10:53

Tại Diễn đàn An ninh tài chính tiền tệ ngày 24/12, TS. Nguyễn Đại Lai - Chuyên gia tài chính, ngân hàng đã có tham luận về "Quản trị rủi ro tín dụng bảo đảm an ninh an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam rút ra từ những bài học quản lý rủi ro của hệ thống NHTM Mỹ". Tạp chí Doanh nghiệp và hội nhập trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc.

Quản trị rủi ro tín dụng bảo đảm an ninh an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam rút ra từ những bài học quản lý rủi ro của hệ thống NHTM Mỹ. (Ảnh: Internet)

Chúng ta đều biết rằng cụm từ “rủi ro ngân hàng” là một khái niệm liên quan trực tiếp đến năng lực bảo vệ an ninh, an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng của một quốc gia. Trong đó cụm từ “năng lực” được nói ở đây là rất rộng, bao gồm cả đa ngành và chuyên ngành. Theo đó, nếu ngân hàng mất tiền trong quầy, trong két v.v thì liên quan đến trộm cắp từ bên ngoài hoặc từ chính bên trong; mất tiền trên tài khoản liên quan đến an ninh mạng, công nghệ… Tuy nhiên các loại mất có liên quan đến bạo lực, đến trộm cướp hay an ninh mạng nói trên chỉ có thể gây tổn thất một phần nhỏ tài sản của ngân hàng và gây hoang mang dư luận xã hội trong một thời gian ngắn - Đó là những rủi ro mang tính đa ngành và đột xuất. Còn rủi ro mang tính chuyên ngành giữa ngân hàng với khách hàng mới là rủi ro mang tính thường nhật và là rủi ro tiềm ẩn cả việc mất ngân hàng chứ không chỉ là “mất trộm” đột xuất một số của cải của ngân hàng. Những bài học về quản trị rủi ro tín dụng từ hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Mỹ nói trong bài này là nói chủ đạo vào loại rủi ro chuyên ngành giúp cho ngành ngân hàng Việt Nam bổ sung những bài học quí để đảm bảo được an ninh, an toàn một cách thường xuyên liên tục trong suốt mọi quá trình hoạt động kinh doanh.

Những bài học xót xa về quản lý nợ xấu ngân hàng thương mại của Mỹ

Trước tiên, chúng ta cần nhìn lại khái quát những rủi ro tín dụng chuyên ngành của các NHTM Mỹ liên quan đến cuộc khủng hoảng tài chính kinh hồn toàn cầu đã diễn ra năm 2008. Cuộc khủng hoảng tín dụng của hệ thông NHTM Mỹ bắt nguồn từ công nghệ chứng khoán hóa bất động sản, chứng khoán hóa các khoản nợ từ đó tạo ra những chuỗi giá trị ảo. Cụ thể vào năm 2000, sau khủng hoảng Dotcom trong ngành công nghệ thông tin và cuộc tấn công khủng bố 11/9/2001, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã liên tục cắt giảm lãi suất tới 11 lần từ mức 6,5%/năm xuống chỉ còn 1%/năm vào năm 2003. Trong thời điểm đó chính quyền của Tổng Thống Bill Clinton đã ban hành đạo luật “Tái phát triển cộng đồng” với mục tiêu là giải quyết nhà ở cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp của Mỹ. Hai cú hích này đã thúc đẩy dân chúng (không chỉ người nghèo) ồ ạt vay tiền ngân hàng để mua nhà trả góp.

Về phía các NHTM cũng không siết chặt kỷ cương quản trị rủi ro tín dụng, thậm chí còn coi đây như một cơ hội bán hàng (cho vay), nên hầu hết các NHTM Mỹ đã sẵn sàng cho vay dàn trải cả với những khách hàng có hạng mức tín nhiệm dưới chuẩn - Tức là không xét khả năng chi trả và điểm tín dụng theo quy định của khách hàng khi người vay chấp nhận trả lãi suất cao hơn từ 1 đến 2% so với mặt bằng chung. Ngoài ra việc cho vay dưới chuẩn còn thể hiện ở mức cho vay cao tới 85% giá trị bất động sản thế chấp, người mua chỉ cần đóng góp 15%. Nghĩa là người vay chỉ cần có 150.000 USD là có thể được vay 850.000 USD để mua căn nhà 1 triệu USD!. Nhiều công ty cho vay thế chấp hoặc NHTM còn cạnh tranh bằng các gói tín dụng hấp dẫn khác để hút khách hàng. Đây là cơ hội cho các nhà đầu cơ bất động sản vì khi thị trường bất động sản đang lên, chỉ cần có một ít tiền là có thể đặt cọc mua nhà và chờ vài tháng sau khi giá nhà chắc chắn sẽ dâng lên là nhà đầu cơ bán ngay lấy lãi, quay vòng. Chính điều này đã khiến cho tỷ lệ từ chối cho vay mua nhà tụt dần xuống và đã xuống thấp kỷ lục còn 14%, chỉ bằng một nửa so với năm 1997.

Đồng thời, để hỗ trợ hoạt động cho vay tạo lập nhà ở, Chính phủ Mỹ đã cho lập Hiệp hội tài trợ bất động sản quốc gia (Federal National Mortgage Association - gọi tắt là Fannie Mae) và Tập đoàn cho vay thế chấp quốc gia (Federal Home Loan Mortgage Corporation - gọi tắt là Freddie Mac). Hoạt động chính của Fannie Mae và Freddie Mac là mua lại những món nợ vay thế chấp bằng bất động sản, đặc biệt là các khoản vay thế chấp "dưới chuẩn" (subprime mortgages) của các ngân hàng rồi dùng bất động sản thế chấp đó để phát hành “trái phiếu tái thế chấp” (Mortgage-backed Securities - MBS) bán cho các nhà đầu tư khác nhằm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Như vậy những món nợ nhà ở đã được “trái phiếu hóa” thành sản phẩm tài chính thông dụng có thể mua bán nhanh chóng trao tay trên thị trường tài chính. Nói đơn giản hơn MBS là một loại chứng khoán phái sinh mà Fannie Mae, hoặc các NHTM khác như Lehman Brothers sẽ bỏ tiền ra mua lại các khoản cho vay thế chấp từ các NHTM đã cho vay, sau đó phân nhóm chúng thành từng loại khác nhau, rồi phát hành MBS để bán lại cho các nhà đầu tư. Sau khi mua các MBS thì các nhà đầu tư sẽ nhận lại khoản tiền vừa lãi vừa gốc được chuyển đến hàng tháng từ các người vay tiền (thông qua một công ty dịch vụ trung gian) trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. Nghĩa là người vay mua nhà thay vì trả tiền dần hàng tháng cho chính ngân hàng mình vay thì nay trả cho trung gian này. Và cũng vì có sự khác nhau về rủi ro của các loại MBS với rủi ro tín dụng ngân hàng nên các công ty bảo hiểm và thẩm định rủi ro, như AIG, cũng nhảy vào để bán bảo hiểm cho các nhà đầu tư MBS. Các bảo hiểm này được bán ra với mục đích bảo đảm cho các nhà đầu tư MBS trong trường hợp những người vay tiền mua nhà không trả được nợ làm cho MBS mất giá thì sẽ được bồi thường.

Ảnh minh họa. (Ảnh: Internet)

Trong thời kỳ hoàng kim, việc kinh doanh bảo hiểm này đã đem lại cho AIG nhiều món lợi khổng lồ. Do lo lắng về diễn biến lạm phát, Cục Dự trữ liên bang (Fed) bắt đầu tăng dần lãi suất, dẫn đến việc thị trường bất động sản bắt đầu chững lại vào đầu năm 2006. Trong khi vào giữa năm 2003 lãi suất căn bản của Fed chỉ có 1%/năm thì vào giữa năm 2006 lãi suất này đã tăng lên đến 5,25%/năm, bắt buộc các NHTM phải đẩy lãi suất cho vay tiền mua nhà lên cao hơn nhiều nữa. Trên thị trường tín dụng lãi suất càng cao đã càng khiến cường độ vay để mua nhà càng giảm. Giá nhà do đó bắt đầu trượt dốc từ cuối năm 2006 vì cung vượt cầu. Nhiều người đã vay tiền NHTM để mua nhà giá cao trước đây bắt đầu thấy giá thị trường của căn nhà mình đang sở hữu thấp hơn khoản nợ mà mình đang vay ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, rất nhiều người trong nhóm vay tiền với lãi suất dưới chuẩn trước đây đã bắt đầu mất khả năng trả nợ khi lãi suất của họ bị điều chỉnh trở lại theo lãi suất mới hiện hành khá cao. Họ muốn bán nhà để trả nợ cũng không được vì giá nhà thấp hơn nhiều so với khoản nợ do thị trường nhà tụt dốc. Hệ quả là họ đành phải bỏ nhà cho ngân hàng trưng thu lại. Việc ngày càng nhiều người không có khả năng trả nợ ngân hàng mỗi tháng, dẫn đến việc thị giá của các MBS bị tụt dốc.

Như đã nói lúc đầu, có rất nhiều nhà đầu tư ở Phố Wall đã mua MBS. Do đó, khi chứng khoán MBS mất giá thì đồng nghĩa với việc tài sản của họ cũng bị mất theo, dẫn đến việc thiếu hụt vốn. Theo đó, các công ty bảo hiểm MBS như AIG cũng lâm vào cảnh khốn đốn khi phải đứng ra bảo lãnh ngày càng nhiều các khoản vay xấu. Vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng hơn khi các nhà đầu tư bắt đầu bán tháo các công cụ đầu tư mạo hiểm để tìm cách thu hồi vốn. Cuối năm 2007, cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ bắt đầu bùng nổ như xe lao dốc không phanh và đã nhanh chóng lan sang các nước khác gây ra những hậu quả vô cùng lớn lên các nền kinh tế ở mọi châu lục. Kể từ tháng 8 năm 2007 đến hết năm 2009, những công ty tài chính từng một thời hùng mạnh của Mỹ như Bear Stearns, Countrywide Financial và IndyMac đã vỡ nợ hoặc bị mua lại; hàng loạt tập đoàn tài chính của Mỹ như Fannie Mae, Freddie Mac, Washington Mutual, Citigroup và Wachovia đều phải đương đầu với những khó khăn chưa từng có. Khởi đầu là hai quỹ phòng hộ của Bear Stearns, và tài sản của một quỹ khác của Bear Stearns bị đóng băng vì những khoản thua lỗ liên quan đến cho vay địa ốc và chứng khoán. Đây là những quỹ đã đầu tư mạnh vào các loại chứng khoán MBS phát hành dựa trên các khoản vay cầm cố bất động sản. Ngày 08/08/2007, một trong những ngân hàng tư nhân lớn nhất của Châu Âu là Sal - Oppenheim có trụ sở tại Luxembourg (Bỉ) tuyên bố tạm thời đóng cửa một quỹ đầu tư chứng khoán địa ốc trị giá 750 triệu USD. Một ngày sau đó, ngân hàng lớn nhất nước Pháp là BNP Paribas cũng hành động tương tự khi phải đóng băng khối tài sản 2,2 tỷ USD và ngân hàng NIBC của Đức cũng đồng thời công bố khoản lỗ gần 200 triệu USD do liên quan đến chứng khoán và bất động sản tại Mỹ.

Theo Moody’s Economy.com, từ tháng 8/2007 tới cuối năm 2008, các định chế tài chính trên toàn cầu đã thua lỗ tổng số tiền lên đến 925 tỷ USD vì khủng hoảng tín dụng, tương đương 3% tổng tài sản của họ. Trong số này, trầm trọng nhất là khoản thua lỗ 525 tỷ USD liên quan đến các khoản cho vay địa ốc của hệ thống NHTM Mỹ. Sang năm 2008, cuộc khủng hoảng tín dụng Mỹ đã lan nhanh sang các nước khác trên thế giới, do có mức độ liên quan rất cao, ước tính có khoảng 50% các loại chứng khoán phát hành từ các khoản nợ cho vay cầm cố ở Mỹ nằm trong tay các nhà đầu tư nước ngoài. Đến hết năm 2009, đã có khoảng 120 ngân hàng Mỹ thuộc diện “có vấn đề” (theo công bố của Federal Deposit Insurance Corporation - Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ FDIC) và hơn 10 ngân hàng Mỹ đã bị phá sản. Các thông tin về diễn biến nợ xấu tại các NHTM Mỹ giai đoạn 1999 - 2011 đã cho thấy: Sau khủng hoảng Dotcom vào năm 2000 ở Mỹ, tỷ lệ nợ xấu ngân hàng đã có dấu hiệu giảm: Từ 1,1% năm 2001 xuống chỉ còn xấp xỉ 0,5% vào cuối năm 2007. Tuy nhiên đến năm 2008, khi khủng hoảng kinh tế bùng nổ, sự phá sản hàng loạt các doanh nghiệp con nợ của NHTM cộng với các khó khăn nội tại trong nền kinh tế vĩ mô của Mỹ đã khiến tỷ lệ nợ xấu ngân hàng tăng cao rõ rệt: Tỷ lệ này nhanh chóng tăng lên 3,8% vào năm 2009. Ngoài ra, có thể thấy mỗi lần xuất hiện khủng hoảng kinh tế tại Mỹ thì các khoản nợ mất vốn ròng (Net charge - offs) cũng tăng lên đáng kể. Cũng giống như bất cứ quốc gia dù giàu hay nghèo nào, các khoản Nợ xấu của NHTM Mỹ luôn có mối liên quan mật thiết với tình hình khủng hoảng của nền kinh tế. Vì khách hàng của mọi NHTM đều là thể nhân và pháp nhân làm nên “nền kinh tế”. Khủng hoảng kinh tế Mỹ những năm 1990, khủng hoảng Dotcom năm 2000 hay khủng hoảng tín dụng bất động sản Mỹ năm 2008 đều kéo theo tỷ lệ Nợ xấu tăng vọt tại các NHTM Mỹ. Cụ thể, tỷ lệ nợ mất vốn ròng trong giai đoạn khủng hoảng 1990 là 1,6% - 1,9%, giai đoạn khủng hoảng Dotcom 2000 là 0,6% - 1,3%, giai đoạn khủng hoảng bất động sản 2008 tỷ lệ này lên tới 2,8%.

(Ảnh: Internet)

Nguyên nhân phát sinh nợ xấu tại Mỹ

Từ việc tái hiện cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ năm 2008, chúng ta có thể nhận thấy nguyên nhân phát sinh nợ xấu tại các NHTM Mỹ là do:

Thứ nhất: Cơ chế quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM Mỹ quá lỏng lẻo và kém hiệu quả. Các NHTM Mỹ đã vi phạm nghiêm trọng quy tắc đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng, sẵn sàng cho vay cả với những khách hàng có hạng mức tín nhiệm dưới chuẩn để “đổi khoản vay” lấy lãi suất cao hơn mặt bằng chung. Ngoài ra, những nới lỏng của pháp luật Mỹ bắt đầu từ thập niên 1980, như việc hủy bỏ đạo luật Glass-Steagal vốn tách biệt các NHTM chuyên thực hiện những hoạt động cho vay an toàn với các ngân hàng đầu tư chuyên thực hiện những nghiệp vụ đầu tư rủi ro cao. Sự “trộn lẫn” này đã góp phần khuyến khích hoạt động đầu cơ, tạo điều kiện cho xung đột lợi ích phát triển lan đến toàn hệ thống NHTM Mỹ.

Thứ hai: Năng lực giám sát và quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM Mỹ không theo kịp sự phát triển của thị trường tài chính.

Hoạt động tài chính của các NHTM Mỹ phát triển quá cao, quá tinh vi và phức tạp đã tạo ra các giá trị “ảo” từ vòng xoay: cho vay thế chấp - chứng khoán hóa các khoản cho vay - dùng tiền thu được tiếp tục cho vay…đã tạo ra “ảo hóa” tổng dư nợ toàn nền kinh tế - Theo đó, việc chứng khoán phái sinh và chứng khoán hóa tài sản có của các NHTM, mặc dù giúp tăng nguồn tài chính và phân tán rủi ro ban đầu, nhưng có thể dẫn đến việc giá thị trường của trái phiếu và cổ phiếu ngày càng xa rời giá trị đích thực của tài sản bảo đảm. Trong khi đó, công tác thanh tra, giám sát và quản lý rủi ro của các ngân hàng còn bộc lộ nhiều điểm yếu, chưa theo kịp với sự phát triển như vũ bão của thị trường tài chính. Cụ thể từ bài học rủi ro tại Mỹ là khả năng quản trị rủi ro tín dụng của các ngân hàng không theo kịp sự phức tạp của "công nghệ" tài chính về chứng khoán hóa các khoản vay, về các nghiệp vụ hoán đổi rủi ro như hợp đồng hoán đổi nợ xấu: credit default swap…

Thứ ba: Các NHTM Mỹ quá lạm dụng đòn bẩy tài chính

Các ngân hàng Mỹ đã sử dụng đòn bẩy tài chính quá cao, sẵn sàng sử dụng vốn huy động để tài trợ cho tăng trưởng tài sản quá lớn, gây rủi ro cho ngân hàng khi giá tài sản đảm bảo suy giảm. Theo quy định từ năm 1975, các ngân hàng đầu tư tại Mỹ không được phép có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao hơn 15 lần. Tuy nhiên từ năm 2004, Uỷ ban chứng khoán Mỹ đã hủy bỏ quy định này, làm cho các ngân hàng có thể sử dụng đòn bẩy tài chính khá cao, lên đến 30 lần, thậm chí hai đại gia bất động sản Freddie Mac, Fannie Mae đã sử dụng đòn bẩy lên đến 60 lần - cao gấp đôi so với các ngân hàng đầu tư mạo hiểm khác.

Thứ tư: Thiếu sự giám sát chặt chẽ từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước

Các NHTM Mỹ sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm, nới lỏng chính sách tín dụng để theo đuổi mục tiêu lợi nhuận trước mắt. Điều này đã khiến nhiều khoản cho vay tiềm ẩn rủi ro cao xuất hiện. Không những vậy, khi thực hiện công nghệ “chứng khoán hóa các khoản cho vay”, các NHTM đã vô tình đưa rủi ro dịch chuyển từ hệ thống ngân hàng sang các tổ chức tài chính khác như công ty tài chính, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư…Tất cả những trung gian tài chính này đều lao vào vòng quay chạy đua tìm kiếm lợi nhuận cao trên thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán mà không gặp phải sự cản trở hay kiểm soát chặt chẽ nào từ phía chính phủ Mỹ hay NHTW Mỹ - Fed.

(Ảnh: Internet)

Các phương pháp quản trị nợ xấu sau khủng hoảng nợ 2008 tại các NHTM Mỹ

Với các nguyên nhân nói trên, các NHTM Mỹ cũng đã chủ động xử lý nợ xấu bằng các giải pháp cổ điển như khoanh nợ, giãn nợ, cơ cấu lại nợ…đồng thời kết hợp với các giải pháp mới (sáp nhập ngân hàng còn hoạt động tốt với ngân hàng khó khăn, chứng khoán hóa tài sản để bán nợ…). Ngoài ra, các NHTM Mỹ cũng nhận được sự hậu thuẫn lớn từ phía Chính phủ, như:

Thứ nhất: Cùng với các nước khác, Mỹ đã sửa đổi các quy định hiện hành để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại các NHTM nhằm ngăn chặn nguy cơ rút tiền hàng loạt của thể nhân và pháp nhân trong thời gian ngắn (tăng mức bảo hiểm tiền gửi, hoặc cam kết bảo đảm an toàn tiền gửi và chi trả đầy đủ tiền gửi tiết kiệm cho người gửi, cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính cho vay tiền). Ví dụ: Năm 2008, Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã nâng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi từ 100.000 USD lên 250.000USD. Trong khi đó, tại các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu, hạn mức bảo hiểm tối thiểu được nâng lên 50.000 EUR. Ngoài cam kết mức tối thiểu, một số nước còn nâng hạn mức cao hơn như Anh tuyên bố nâng hạn mức bảo hiểm từ 35.000GBP lên 50.000GBP; Đức tuyên bố bảo đảm toàn bộ tiền gửi của người dân tại các ngân hàng. Đài Loan, hạn mức chi trả BHTG được tăng gấp 2 lần, lên 3 triệu đôla Đài Loan…

Thứ hai: Tiến hành quốc hữu hoá các NHTM trên diện rộng, Nhà nước mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng, mua lại cổ phần chi phối và nắm quyền điều hành cho đến khi ngân hàng hoạt động bình thường sẽ lại bán ra thị trường. Ngoài ra, Chính phủ cũng khuyến khích các ngân hàng, các tổ chức tài chính mua lại các NHTM đổ vỡ và phá sản.

Thứ ba: NHTW tiến hành cơ cấu lại các ngân hàng và hệ thống tài chính trong nước; cơ cấu lại hệ thống quản trị rủi ro của các ngân hàng, đặc biệt là tăng cường hệ thống kiểm tra, giám sát. Các NHTM quy định lại các hệ số bảo đảm an toàn, cơ cấu lại các khoản vay, cắt giảm nhân viên, tiết kiệm chi phí, chấn chỉnh lại các quy định nội bộ…Tháng 11/2008, trong số giải pháp đã được nêu ra có việc các ngân hàng phải duy trì mức vốn tự có bắt buộc, ít nhất là 10% giá trị tài sản có có nguy cơ rủi ro cao. Tuy nhiên, theo phân tích của nhiều chuyên gia thì tỷ lệ vốn tự có như vậy là chưa đủ, thậm chí kể cả tăng lên gấp đôi cũng còn là khiêm tốn. Chính vì thế cần phải có các nghiên cứu nghiêm túc nhằm tạo nên các chính sách đủ nghiêm khắc, các nguồn vốn đủ mạnh tại các NHTM để giải quyết các khoản nợ xấu nhưng không làm ảnh hưởng tới toàn hệ thống tài chính.

Như vậy, việc kết hợp các giải pháp xử lý nợ xấu tại Mỹ cho thấy vai trò chủ đạo của Chính phủ, với hành lang pháp lý hoàn thiện, khả năng “dự báo” và “phản ứng” áp dụng kịp thời với các biện pháp xử lý sáng tạo của NHTM… đã có tác động rất lớn, tạo ra hiệu quả cao trong quản trị rủi ro tín dụng và xử lý nợ xấu tại các NHTM Mỹ suốt hơn 10 năm qua.

Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Từ nghiên cứu diễn biến của 2 cuộc khủng hoảng diễn ra với quy mô lớn, có thể rút ra những kinh nghiệm như sau:

Nguy cơ khủng hoảng tài chính không loại trừ bất cứ quốc gia, tổ chức nào. Những quốc gia và tổ chức càng lớn, càng phát triển thì nguy cơ khủng hoảng càng cao nếu rủi ro tín dụng bắt nguồn từ sự yếu kém của cơ chế quản trị rủi ro, từ quan điểm “đổi rủi ro lấy lợi nhuận, lãi suất cao…”.

Từ trước tới nay, rủi ro khủng hoảng tài chính thường bắt nguồn và có liên quan trực tiếp đến rủi ro tín dụng, đặc biệt là rủi ro từ các hoạt động tín dụng bất động sản và chứng khoán hóa tài sản có của các NHTM. Tại Mỹ La Tinh cũng như một số nước công nghiệp phát triển như Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển, Nhật Bản và Mỹ, khủng hoảng ngân hàng thường xảy ra sau sự bùng nổ của các khoản cho vay. Đơn cử như: sự tăng trưởng tín dụng nóng của các NHTM Thái Lan, Hàn Quốc đã…dẫn tới khủng hoảng 1997, sự bùng nổ cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính - ngân hàng năm 2008, và nhanh chóng lan rộng trên toàn cầu. Vì vậy, các NHTM Việt Nam cần tuân thủ đúng và đầy đủ các bước trong quy trình cho vay, không ngừng đào tạo và nâng cao ý thức trách nhiệm, trình độ năng lực cũng như khả năng thẩm định, đánh giá của các nhân viên tín dụng. Bảo đảm sự chặt chẽ và chính xác ngay từ khâu đầu tiên của quá trình cho vay và suốt quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng là phương pháp phòng chống rủi ro hiệu quả nhất. Theo đó, các NHTM Việt Nam phải quan tâm đến việc đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, ưu tiên phương án kinh doanh hiệu quả hơn là chú trọng đến tài sản thế chấp của khách hàng vay; NHTM phải có chương trình, nghiệp vụ giám sát khách hàng suốt giai đoạn sau giải ngân - Có kế hoạch kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng, định kỳ đánh giá lại khách hàng cũng như tài sản đảm bảo để hạn chế tối đa rủi ro do năng lực trả nợ của khách hàng có thể xảy ra cho Ngân hàng.

Việc yêu cầu một lượng vốn tối thiểu đối với các NHTM là rất quan trọng, tuy nhiên vẫn chưa đủ để đảm bảo tính ổn định cho hoạt động của các ngân hàng, bởi ngay đến cả những NHTM có quy mô vốn rất lớn vẫn có thể rơi vào nguy cơ phá sản vì vốn tự có của mọi NHTM luôn luôn nhỏ hơn nhiều lần so với tài sản có có tiềm ẩn rủi ro của NHTM.

Khi các loại hình hoạt động kinh doanh khác phát triển như việc mua bán công ty, mua bán nợ, sự phát triển của các sản phẩm phái sinh, sẽ làm cho nghiệp vụ quản trị rủi ro ngày một phức tạp và khó khăn hơn. Chính vì vậy, các NHTM cần phải nâng cao hơn nữa công tác giám sát và quản trị, dự báo và phòng ngừa rủi ro như quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản…để tạo sự ổn định và phát triển an toàn cho hoạt động ngân hàng.

Các NHTM cần sớm thiết lập hệ thống phân loại tín dụng trong quá trình hướng tới lượng hóa rủi ro tín dụng, nhằm nâng cao khả năng quản trị rủi ro tín dụng, tập trung xử lý có hiệu quả các khoản nợ xấu đồng thời với việc tập trung ngăn chặn và phòng ngừa các khoản nợ xấu phát sinh trong tương lai. Việc xử lý nợ xấu cần có lộ trình cụ thể và phải tuân thủ thời hạn đã đề ra.

Các NHTM cần sớm thiết lập hệ thống phân loại tín dụng trong quá trình hướng tới lượng hóa rủi ro tín dụng, nhằm nâng cao khả năng quản trị rủi ro tín dụng, tập trung xử lý có hiệu quả các khoản nợ xấu đồng thời với việc tập trung ngăn chặn và phòng ngừa các khoản nợ xấu phát sinh trong tương lai. Việc xử lý nợ xấu cần có lộ trình cụ thể và phải tuân thủ thời hạn đã đề ra.. (Ảnh: Internet)

Đề xuất những việc “cần làm ngay” trong quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam

Thứ nhất, Việt Nam rất cần lập sàn mua bán nợ đối với các NHTM Việt Nam thay việc “gửi” nợ xấu vào Công ty Quản lý tài sản (VAMC) Việt Nam như hiện nay để sớm giải phóng các NHTM khỏi sự ràng buộc quá lâu vào các khoản nợ xấu khó đòi cùng những tài sản thế chấp bắt buộc phải quản lý một cách không chuyên ngành. Song song với việc lập sàn mua, bán nợ, Nhà nước cần phải tạo đầu mối để quản lý và khuyến khích mở cơ chế kết nối thông tin hoặc hình thành các tổ chức hỗ trợ độc lập, như các Công ty thẩm định giá tài sản chuyên nghiệp, các Tổ chức xếp hạng tín nhiệm, các tổ chức mua nợ và các tổ chức thu nợ chuyên nghiệp v.v phải được cấp phép hoạt động theo đúng Luật pháp liên quan sau khi có sự kiểm tra các điều kiện hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động mua bán nợ quốc gia.

Thứ hai, Các NHTM cần sớm thiết lập hệ thống phân loại tín dụng trong quá trình hướng tới lượng hóa rủi ro tín dụng, nhằm nâng cao khả năng quản trị rủi ro tín dụng, tập trung xử lý có hiệu quả các khoản nợ xấu đồng thời với việc tập trung ngăn chặn và phòng ngừa các khoản nợ xấu phát sinh trong tương lai. Việc xử lý nợ xấu cần có lộ trình cụ thể và phải tuân thủ thời hạn đã đề ra.

Thứ ba, Thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng theo các đề án đã được Chính phủ phê duyệt, phù hợp với các cam kết với các tổ chức tài chính quốc tế nhằm tạo ra các NHTM Việt Nam có quy mô lớn, hoạt động an toàn, hiệu quả, và có đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước. Theo đó, cần:

Cơ cấu lại tổ chức: Tách hoàn toàn các hoạt động cho vay theo chính sách hoặc dưới dạng chỉ định ra khỏi hoạt động kinh doanh thương mại của các NHTM để các ngân hàng thực hiện tốt chức năng kinh doanh theo cơ chế thị trường.

Cơ cấu lại tài chính: Tăng dần quy mô vốn chủ sở hữu và xử lý dứt điểm nợ tồn đọng của các NHTM nhằm lành mạnh hóa tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh và khả năng chống chịu rủi ro. Đối với các NHTM có tỷ lệ sở hữu lớn của Nhà nước, cần bổ sung quy mô vốn chủ sở hữu nhằm đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Hiệp ước Basel II, xử lý dứt điểm nợ tồn đọng hướng tới lành mạnh và minh bạch tài chính. Đối với các NHTM cổ phần, cần tăng vốn chủ sở hữu thông qua hoạt động sáp nhập, hợp nhất, phát hành bổ sung cổ phiếu. Đối với những NHTM cổ phần hoạt động quá yếu kém, không thể tăng vốn chủ sở hữu và không khắc phục được những yếu kém về tài chính thì phải bị thu hồi giấy phép hoạt động.

Thứ tư, Từng NHTM phải xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh mới, nhất là chú trọng việc mở rộng quy mô hoạt động, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng. Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ ngân hàng, nhất là hệ thống thông tin quản lý (MIS) cho toàn bộ hệ thống ngân hàng phục vụ điều hành kinh doanh, kiểm soát hoạt động ngân hàng, quản lý tài sản nợ, tài sản có, quản trị rủi ro tín dụng, quản lý công nợ và công tác kế toán, hệ thống thanh toán liên ngân hàng, hệ thống giao dịch điện tử và giám sát từ xa v.v theo đúng qui trình và chuẩn mực quốc tế. Ngoài ra, các NHTM Việt Nam cũng cần chú trọng tới hoạt động Marketing, đa dạng hóa và nâng cao tiện ích các sản phẩm dịch vụ. Cung ứng dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ kỹ thuật tiên tiến; Cải cách bộ máy quản lý và điều hành theo tư duy kinh doanh mới; Bên cạnh đó, Nhà nước cần giảm dần sự bảo hộ cho các NHTM trong nước, đặc biệt về hoạt động tín dụng và cơ chế tái cấp vốn nhằm tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của NHTM trong kinh doanh, giảm dần bao cấp đối với các NHTM có tỷ lệ sở hữu vốn tự có của Nhà nước, áp dụng đầy đủ hơn các quy chế và chuẩn mực quốc tế về an ninh, an toàn trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng.

Thứ năm: Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng, đào tạo và đào tạo lại cán bộ tín dụng, các cán bộ thực hiện các nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại; Tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất là những cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán dự án tín dụng, ký kết hợp đồng quốc tế, cán bộ thanh tra giám sát, cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới.

Thông qua những bài học đau xót về sự lỏng lẻo, chủ quan, dễ dãi trong quan trị rủi ro tín dụng và trong các hoạt động đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, tài chính Mỹ từ đầu những năm 2000 đến 2009, Việt Nam cần coi trọng mục tiêu an ninh, an toàn hơn là mục tiêu lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng. Những đề xuất trong bài đã xuất phát từ những bài học và những nguyên nhân rút ra từ cuộc khủng hoảng ngân hàng lan rộng từ Mỹ tới toàn cầu những năm cuối 2000 nhằm góp tiếng nói đề xuất với các bên quan tâm để cùng được hướng về và nhìn thấy một hệ thống ngân hàng, tài chính Việt Nam phát triển trong sự an toàn và bền vững trong nền kinh tế thị trường mở cửa và ngày càng phát triển của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế quốc tế.

Theo doanhnghiephoinhap.vn

Nguồn bài viết: http://doanhnghiephoinhap.vn/quan-tri-rui-ro-tin-dung-bao-dam-an-ninh-an-toan-he-thong-ngan-hang-viet-nam-rut-ra-tu-nhung-bai-hoc.html

Bạn đang đọc bài viết "Từ những bài học quản lý rủi ro của hệ thống NHTM Mỹ đến bài học cho hệ thống ngân hàng Việt Nam" tại chuyên mục Pháp lý và Kinh doanh. Mọi chi tiết xin liên hệ số hotline (0915.999.467) hoặc gửi email về địa chỉ (toasoan@phaply.vn).

Bạn đọc đặt tạp chí Pháp lý dài hạn vui lòng để lại thông tin