Từ khóa "phòng chong tham nhũng" :
Từ các vụ lạm dụng quyền lực, vi phạm pháp luật của quan chức một số tỉnh, thành: Khẩn trương hoàn thiện cơ chế và đổi mới phương thức kiểm soát quyền lực
(Pháp lý) - Cựu Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Bình Dương Trần Văn Nam vừa bị C03 - Bộ Công an khởi tố bắt giam. Ông Nam là bị can thứ 15 trong số các bị can đã bị khởi tố và bắt giam trước đó. Cùng với sự “ngã ngựa” trước đó của hàng loạt quan chức TP.HCM và một số tỉnh thành khác, vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” xảy ra tại Bình Dương đã gióng lên hồi chuông về công tác kiểm soát quyền lực. Hoàn thiện cơ chế và đổi mới phương thức kiểm soát quyền lực là một yêu cầu bức thiết đặt ra hiện nay.
Lạm dụng quyền lực và “ mượn danh” tổ chức để can thiệp sâu, “ giúp sức” cho doanh nghiệp.
Việc CQĐT khởi tố và bắt giam cựu Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Bình Dương Trần Văn Nam không khiến dư luận bất ngờ. Trước đó tại Hội nghị Trung ương 3 diễn ra đầu tháng 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thi hành kỷ luật ông Trần Văn Nam bằng hình thức cách chức tất cả chức vụ trong Đảng nhiệm kỳ: 2010-2015, 2015-2020 và 2020-2025; đặc biệt là câu chuyện ông bất ngờ làm đơn xin rút khỏi danh sách đại biểu Quốc hội khóa XV.
Trước đó, từ tháng 4/2020, Công an tỉnh Bình Dương đã khởi tố bắt giam 07 bị can đều là các cán bộ chủ chốt (gồm nguyên Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc, thành viên HĐQT Công ty 3-2 và Chủ tịch kiêm TGĐ Công ty TNHH MTV Đầu tư và Quản lý dự án Bình Dương), do có sai phạm liên quan đến việc hoàn tất thủ tục chuyển nhượng khu đất “vàng” 43ha cho Công ty TNHH xây dựng Tân Phú; và góp vốn bằng quyền sử dụng đất 145ha vào Công ty CP Đầu tư và phát triển Tân Thành trái pháp luật.
Đến thời điểm hiện tại, liên quan vụ án, Bộ Công an cũng đã khởi tố tổng cộng 15 người là cựu quan chức tỉnh Bình Dương (ngoài cựu Bí thư Trần Văn Nam còn có cựu Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương Trần Thanh Liêm, cựu Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Phạm Văn Cành, cựu Phó Chủ tịch tỉnh Nguyễn Thanh Trúc cùng nhiều cựu lãnh đạo, cán bộ ở tỉnh Bình Dương… ). Với việc để Tổng Công ty 3-2 chuyển nhượng trái quy định pháp luật về tay tư nhân đối với hai khu đất “vàng” nói trên, làm thất thoát tài sản nhà nước lên tới ngàn tỷ đồng, hành vi sai phạm của các bị can nguyên là lãnh đạo tỉnh Bình Dương đã cấu thành tội danh: “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”, theo quy định tại Điều 219 Bộ luật Hình sự 2015.
Cận cảnh khu đất vàng 43ha tại phường Hoà Phú, TP.Thủ Dầu Một từng được giao cho Tổng Công ty 3-2 sở hữu đã biến thành tài sản Công ty Kim Oanh TP.HCM…
Từ kết quả điều tra cho thấy, các chiêu thức, thủ đoạn được các bị can sử dụng na ná các chiêu thức thủ đoạn mà các bị can nguyên là lãnh đạo Thành ủy, UBND thành phố Hồ Chí Minh (nhiệm kỳ 2015 – 2020) đã thực hiện trong các vụ án: “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại Tổng Công ty bia rượu nước giải khát (Sabeco), Q1, TP. Hồ Chí Minh; vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí” liên quan đến dự án 8-12 Lê Duẩn, Quận 1, TP Hồ Chí Minh; vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” xảy ra tại Tổng Công ty Nông nghiệp Sài Gòn; đặc biệt là vụ án “Tất Thành Cang và đồng bọn”… Có nghĩa hành vi cố ý làm trái của lãnh đạo Công ty 3-2 không “đơn độc”, bên cạnh họ có sự tiếp sức tích cực của các bị can nguyên là cựu lãnh đạo đứng đầu ở Bình Dương. Những cá nhân lãnh đạo này đã lạm dụng và nhân danh “Thường trực Thành ủy”, “Thường trực Tỉnh ủy” để can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp với mục đích không hề trong sáng.
Nếu như quá trình “thâu tóm” 32ha đất công ở Phước Kiển, huyện Nhà Bè của Công ty Quốc Cường (Gia Lai) từ tay Công ty Tân Thuận (có 100% vốn Thành ủy TP.HCM), gây thất thoát tài sản của nhà nước 2.400 tỷ đồng, nhờ vào ý kiến chỉ đạo của nguyên PBT Thường trực Tất Thành Cang tại Thông báo số 485 và Tờ trình số 1206 của Văn phòng Thành ủy TP.HCM; thì ở vụ án xảy ra ở Cty 3 – 2 ở Bình Dương, quá trình để Công ty Kim Oanh sở hữu 43ha đất tại vị trí đắc địa ở TP. Thủ Dầu Một, nhờ vào sự can thiệp của các cựu lãnh đạo các cấp của tỉnh Bình Dương đứng đầu là nguyên Bí thư Tỉnh ủy Trần Văn Nam. Nếu có khác, đó là Tất Thành Cang đã “lén lút” không thông qua Thường trực Thành ủy trước khi ban hành các văn bản chỉ đạo.
Còn vụ ở Cty 3 – 2 thì sao? Trước khi Công ty Tân Phú ra đời, khu đất 43ha được giao cho Tổng Công ty 3-2 trực thuộc Tỉnh ủy Bình Dương (còn 60% vốn nhà nước), quản lý để sử dụng vào mục đích xây dựng Khu liên hợp Công nghiệp - Dịch vụ - Đô thị Bình Dương. Tuy nhiên đến ngày 17/8/2010, Thường trực Tỉnh ủy Bình Dương bất ngờ có Văn bản số 1830 – CV/TU đồng ý chủ trương cho phép Tổng Công ty 3-2 liên doanh góp vốn 30% với Công ty BĐS Âu Lạc để “đầu tư và kinh doanh dự án tại Khu B có diện tích 43ha”.
Đến ngày 29/8/2016, trong lúc Công ty Âu Lạc chỉ mới chuyển được 140 tỷ đồng, Thường trực Tỉnh ủy Bình Dương đã phát đi Công văn số 477- CV/TU có nội dung không đồng ý không chuyển giao khu đất 43 ha cho Công ty Đầu tư và QLDA Bình Dương, nhằm mở đường cho Tổng Công ty 3-2 hợp thức hóa “mục tiêu” nói trên. Dựa vào văn bản này, Tổng Công ty 3-2 hoàn thành việc chuyển nhượng 43ha đất cho liên doanh Tân Phú vào cuối năm 2016. Ngay sau khi được cấp quyền sử dụng khu đất, Công ty Tân Phú (trực thuộc Công ty CP Đầu tư và Phát triển Kim Oanh TP.HCM) đã làm thủ tục thế chấp và bảo lãnh cho Công ty CP Đầu tư xây dựng công nghiệp Nam Kim vay 350 tỷ đồng. Mặc dù việc đăng ký thế chấp này chưa được đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai theo quy định tại Điều 188 Luật Đất đai năm 2013.
Tương tự như vậy, liên quan đến khu đất 145ha, kết luận điều tra xác định, ông Phạm Văn Cành, nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Bình Dương, cùng chịu trách nhiệm về các vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2015-2020; chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc ký văn bản nhằm hợp thức việc chuyển nhượng trái phép dự án Tân Phú cho tư nhân và để xảy ra các vi phạm tại Tổng Công ty 3/2.
Và khu đất 145 ha hiện là sân Golf Harmonia Gofl Park do Công ty Tân Thành làm chủ đầu tư… khiến cho cựu Bí thư Tỉnh ủy Trần Văn Nam và hàng loạt các quan chức tỉnh Bình Dương phải “ngã ngựa”.
Bất chấp pháp luật, cho bán và đầu tư tài sản công ra ngoài DN không cần thẩm định, đấu giá…
Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 của Chính phủ về đầu tư vốn Nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp, việc thanh lý, nhượng bán tài sản cố định của nhà nước tại DNNN (Điều 27), quy định phương thức thanh lý, nhượng bán tài sản cố định: “DNNN thực hiện việc nhượng bán tài sản cố định bằng hình thức đấu giá thông qua một tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản hoặc do doanh nghiệp tự tổ chức thực hiện công khai theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản”. Có nghĩa bắt buộc phải thông qua hình thức đấu giá, trước khi tổ chức bán đấu giá phải thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị tài sản cố định cần nhượng, bán.
Quy định trên của pháp luật nhằm để ngăn chặn sự “bốc hơi” tài sản công tại các DNNN. Tuy nhiên, từ kết quả điều tra của cơ quan có chức năng cho thấy, dưới sự can thiệp của những người lãnh đạo cao nhất ở địa phương, những sai phạm của các DNNN “con cưng” (thuộc 2 địa phương là TP.HCM và tỉnh Bình Dương), đều có chung một hành vi làm trái rất liều lĩnh, bất chấp pháp luật, đó là cho nhượng, bán và kể cả đầu tư vốn ra bên ngoài doanh nghiệp trái mục đích mà không cần định giá và tổ chức bán đấu giá…
Tại thời điểm Công ty Quốc Cường (Gia Lai) nhận chuyển nhượng 32ha đất công ở Phước Kiển, huyện Nhà Bè từ Công ty Tân Thuận (6/2017), có giá thị trường đã là 2.400 tỷ đồng (bình quân 7,5 triệu đồng/m2), nhưng nguyên PBT Thường trực Tất Thành Cang đã “bật đèn xanh” để hai bên tự thỏa thuận với giá chỉ 1,29 triệu đồng/m2, khiến cho ngân sách bị “gọt” còn 419 tỷ đồng. Trong vụ án: “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí”, nguyên PCT UBND TP.HCM Nguyễn Thành Tài đã lạm dụng quyền lực “dẫn dắt” Công ty Quản lý kinh doanh nhà TP.HCM “thôn tính” khu đất vàng rộng 5.000m2, tọa lạc tại 8-12 Lê Duẩn, Q1, TP Hồ Chí Minh về tay 2 công ty tư nhân (Lavenue và Hoa Tháng Năm), bỏ qua các công đoạn, không thẩm định giá tài sản, không tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, hậu quả làm thiệt hại tài sản nhà nước tới 2.554 tỷ đồng.
Toàn cảnh khu đất 2 – 4 – 6 Hai Bà Trưng, Q.1, TP.HCM, khiến nguyên Phó Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Hữu Tín rơi vào vòng lao lý
Cũng như vậy, đối với khu 43 ha tọa lạc tại vị trí đắc địa ở TP. Thủ Dầu Một (Bình Dương), Thường trực Tỉnh ủy Bình Dương cho phép Tổng Công ty 3-2 tự thỏa thuận việc mua bán (không qua đấu giá) với Công ty Tân Phú để triển khai Dự án khu đô thị Tân Phú. Kết quả, đã làm thất thiệt hại tài sản nhà nước lên tới 302 tỉ đồng, do giá chuyển nhượng thấp hơn bảng giá đất quy định của UBND tỉnh Bình Dương tại thời điểm hơn 250 tỉ đồng.
Pháp luật quy định: “DNNN không được sử dụng tài sản, tiền vốn, quyền sử dụng đất thuê để góp vốn hoặc đầu tư vào lĩnh vực bất động sản (trừ doanh nghiệp nhà nước có ngành nghề kinh doanh chính là các loại bất động sản theo quy định của Luật kinh doanh bất động sản” (khoản 7 Điều 1 Nghị định 32/2018/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 21 Nghị định 91/2015/NĐ-CP về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp). Tuy nhiên, tháng 6/2017, được sự tiếp sức của Thường trực Tỉnh ủy Bình Dương, bộ máy quản trị Tổng Công ty 3-2 đã đem quyền sử dụng khu đất “vàng” 145 ha đi góp vốn với công ty nước ngoài kinh doanh sân golf, bất chấp quy định của pháp luât.
Điều đáng nói là, trước khi đem quyền sử dụng đất đi góp vốn, khu đất 145ha chưa được thẩm định định giá để xác định giá trị (theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Quản lý sử dụng vốn nhà nước vào đầu tư, sản xuất tại doanh nghiệp), cũng vẫn do các bên tự thỏa thuận. Kết quả, sau một thời gian lòng vòng chuyển nhượng, khu đất này đã rơi vào Công ty Tân Thành với giá chỉ 139 tỷ đồng, gây thất thoát tới 1.632 tỷ đồng. Với sai phạm này, UBKT TW xác định, ông Trần Thanh Liêm, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương, nguyên Bí thư Ban Cán sự Đảng, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh là người giữ vai trò chính.
Cũng thủ đoạn trên, trước đó trong vụ án: “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại Tổng Công ty bia rượu nước giải khát (Sabeco), được sự tiếp sức của nguyên Phó Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Hữu Tín, những người điều hành Công ty này đã dễ dàng “hóa kiếp” khu đất “vàng” tọa lạc tại địa chỉ 2-4-6 Hai Bà Trưng, Q.1, TP.HCM về tay các cổ đông tư nhân kinh doanh BĐS. Thủ đoạn của Sabeco: Góp vốn thành lập Công ty CP Đầu tư Sabeco Pearl để làm chủ đầu tư dự án Sài Gòn Mê Linh Tower (2015) cùng với 4 cổ đông sáng lập là 4 công ty cổ phần.
Sau 03 lần “thay áo” (từ DA Sài Gòn Mê Linh Tower, đến DA “Khu phức hợp khách sạn 6 sao, Trung tâm hội nghị, hội thảo và cao ốc văn phòng cho thuê”; và cuối cùng là: DA “Đầu tư xây dựng và kinh doanh trung tâm hội nghị, thương mại - dịch vụ, văn phòng, officetel và căn hộ bán”), Sabeco Pearl bất ngờ được ông Tín ký văn bản cho hưởng ưu đãi thuê đất tới 50 năm trả tiền 1 lần để thực hiện dự án mà không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất. Đến giữa năm 2016 (chủ trương thoái vốn của Nhà nước ra đời), Sabeco lập tức thoái vốn bán toàn bộ số cổ phần đang nắm giữ cho các cổ đông sáng lập khác... Kết quả, sau 1 năm theo đuổi DA, bỏ ra 92 tỷ đồng tiền mặt và quyền sử dụng đất khu đất có giá trị ghi sổ tới 1.237 tỷ đồng (để đảm bảo tỷ lệ góp vốn 26% vào Sabeco Pearl), Sabeco chỉ thu về được số tiền 195 tỷ đồng…
Các bị can Trần Văn Nam, Trần Thanh Liêm, Nguyễn Thanh Trúc… nguyên là Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương
Từ trái qua phải: Các bị can, bị cáo nguyên là Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch và PCT UBND TP.HCM gồm: Tất Thành Cang, Nguyễn Thành Tài, Trần Hữu Tín…
Kiến nghị
Có thể thấy, qua các vụ án xảy ra ở TP HCM, một số tỉnh thành khác và mới đây nhất là Bình Dương, số quan chức ngã ngựa liên quan đến đất không hề ít. Có những vụ việc, cơ quan điều tra không chứng minh được cán bộ “giúp sức” doanh nghiệp hưởng lợi từ đất đai công sản là xuất phát từ động cơ vụ lợi, là tham nhũng, nhận hối lộ. Nhưng trên thực tế, khó ai có thể tin được họ giúp DN vô tư và trong sáng….
Chúng tôi đã có nhiều bài viết chỉ ra các lỗ hổng trong các qui định của pháp luật đất đai, đấu thầu, đấu giá….đã vô tình “ giúp “ các quan tham và các Cty, doanh nghiệp sân sau, thân hữu của họ thực hiện trót lọt nhiều phi vụ rút ruột công quĩ đất đai công sản. Tới đây khi sửa đổi Luật Đất đai và một số Luật liên quan, chắc những khuyết thiếu bất cập của Luật sẽ được các cơ quan chức năng nhắm đến.
Tuy nhiên một vấn đề chúng tôi mong các cấp ngành cần đặc biệt lưu tâm hiện nay đó là công tác kiểm soát quyền lực. Trong đó đáng lo ngại là “ quyền lực mềm” được tạo ra bởi những cá nhân có chức quyền, nhưng lại tha hóa, xuống cấp về phẩm chất đạo đức. Sức công phá của “quyền lực mềm” dạng này đối với tài sản nhà nước được nhân lên gấp nhiều lần, khi nó được cộng hưởng từ sự lạm dụng uy tín của một tập thể.
Từ sai phạm trong quản lý, sử dụng tài sản công xảy ra tại tỉnh Bình Dương và trước đó là tại TP.HCM và một số tỉnh thành khác, dẫn tới hàng loạt các quan bị “xộ khám” đã làm phát lộ khoảng trống pháp lý về kiểm soát “quyền lực mềm” trong quản lý sử dụng tài sản công tại DNNN. Cần phải có giải pháp căn cơ trong dài hạn để không chế.
Thời gian qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành nhiều quy định nhằm để khống chế và kiểm soát quyền lực của cán bộ, đảng viên như Quy định số 47 – QĐ/TW về 19 điều cấm đảng viên không được làm; Quy định số 30-QĐ/TW về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; Quy định số 102 - QĐ/TW về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; đặc biệt là Quy định số 08 - QĐi/TW về nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên BCH TW; Quy định số 205-QĐ/TW của Bộ Chính trị về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền…
Tuy nhiên theo chúng tôi, tới đây vẫn cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung các thiết chế đặc biệt khác để đưa những đảng viên có chức có quyền đi đúng “đường ray”. Qua đây, chúng tôi mạnh dạn kiến nghị một số điểm sau:
1.Cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị bảo đảm sự vận hành một cách đồng bộ và thống nhất hệ thống các thể chế, các thiết chế liên quan trong kiểm soát quyền lực của Đảng, của Nhà nước và các thành viên của hệ thống chính trị, nhất là vai trò của nhân dân.
2. Đổi mới phương thức kiểm soát quyền lực chính trị của Đảng, Nhà nước gồm Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước… (các tổ chức nhà nước và cá nhân ngoài Đảng, Nhà nước…), của Đảng đối với Nhà nước… được coi là cơ chế kiểm soát từ bên ngoài.
3. Phải duy trì sự kiểm soát, chế ước, phát hiện và xử lý kịp thời những biểu hiện không đúng, không hiệu quả trong việc thực thi quyền lực nhà nước của mỗi cơ quan, nhân viên nhà nước hoặc của các thiết chế khác khi tham gia thực hiện quyền lực nhà nước, trong tính chỉnh thể thống nhất. Chủ động thực thi cơ chế kiểm soát quyền lực nhằm trong sạch hóa, tinh nhuệ hóa đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức nhà nước, song hành với kiểm soát quyền lực cán bộ, đảng viên trong bộ máy đảng và các thành viên của hệ thống chính trị.
4. Pháp luật dù có hoàn thiện và nghiêm minh đến đâu cũng không ngăn chặn được lòng tham trổi dậy của con người. Lòng tham khiến người ta rất dễ dùng quyền lực để thu vén cho cá nhân và sẵn sàng móc ngoặc, thỏa hiệp với những kẻ xấu để vụ lợi. Vì vậy, mấu chốt sâu xa của vấn đề vẫn nằm ở chỗ cần phải có cơ chế phù hợp để chọn lựa được một đội ngũ công quyền thực sự có tâm, tầm và có trách nhiệm . Theo chúng tôi, đây là điều then chốt nhất, không thể giao quyền lực vào tay những người đạo đức kém hoặc vô đạo đức.
5. Quyền làm chủ của Nhân dân không chỉ được đảm bảo bằng Hiến pháp, pháp luật, mà bằng hệ thống các phương tiện khác: báo chí và truyền thông, các thiết chế Quy chế Dân chủ ở cơ sở, bảo đảm Dân biết, Dân bàn, Dân làm, Dân kiểm tra, Dân thụ hưởng, thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Cần để công dân thực hiện đúng, đầy đủ và hiệu quả quyền lực của mình bằng và thông qua pháp luật trong việc kiểm soát quyền lực.
VŨ LÊ MINH
Thấy gì từ 3 vụ án mà cựu chủ tịch Nguyễn Đức Chung bị khởi tố...
(Pháp lý) - Thông đồng móc ngoặc giữa cán bộ có chức quyền với các đối tượng bên ngoài, giữa khu vực công và khu vực tư với các hình thức “bảo kê, sân sau”. Đi liền với sự móc nối, tiếp tay, bảo kê, sân sau là dấu hiệu tham nhũng, đưa nhận hối lộ…Đó là những điểm đặc biệt trong các vụ án mà cựu Chủ tịch TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung bị khởi tố. Qua các vụ án này, cũng cho thấy nhiều lỗ hổng pháp luật về đầu tư, xây dựng, đấu thầu, chi tiêu mua sắm công và các quy định pháp luật về kinh tế khác có liên quan. Đặc biệt cần quan tâm việc hoàn thiện cho được cơ chế pháp luật nhằm kiểm soát quyền lực “ mềm” của quan chức…
Cựu Chủ tịch Nguyễn Đức Chung khi còn đương chức
Bóng dáng những “sân sau”, doanh nghiệp thân hữu của quan chức (?)
Nghiên cứu các vụ án mà ông Nguyễn Đức Chung bị khởi tố, không khó để nhận ra bóng dáng những “sân sau”, doanh nghiệp “thân hữu” hiện rõ. Bởi, kết quả điều tra của cơ quan chức năng đã cho thấy, ông Chung đã sử dụng quyền của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội chỉ đạo, can thiệp… tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có mối quan hệ thân hữu của mình tham gia, trúng nhiều gói thầu của các thành phố.
Điển hình như trong vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Sở KH-ĐT Hà Nội và một số đơn vị liên quan (vụ án được tách ra từ vụ Nhật Cường). Kết luận điều tra của cơ quan chức năng đã chỉ ra rằng, ông Nguyễn Đức Chung đã sử dụng quyền của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội chỉ đạo Sở KH-ĐT chỉ định, dừng thực hiện gói thầu số hóa năm 2016 không đúng thẩm quyền, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu.
Theo kết luận điều tra, năm 2016 Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội tổ chức đấu thầu gói thầu số hoá hồ sơ đăng ký doanh nghiệp năm 2016 trên địa bàn. Công ty Đông Kinh không đủ năng lực nộp hồ sơ nên rủ Công ty Nhật Cường cùng tham gia.
Cụ thể, thực hiện chỉ đạo của Nguyễn Đức Chung, Nguyễn Văn Tứ chỉ đạo Nguyễn Tiến Học, Phạm Thị Kim Tuyến, Phạm Thị Thu Hường dừng thầu, hủy thầu gói thầu số hóa năm 2016 không có căn cứ. Thời điểm đó, gói thầu đang được tổ chức mời thầu theo kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, các nhà thầu tham gia đủ điều kiện dự thầu, không có nhà thầu nào kiến nghị, không có lý do điều chỉnh mục tiêu, phạm vi đầu tư, không phát hiện hành vi vi phạm trong đấu thầu...
Tiếp đó, Lãnh đạo Sở KH-ĐT Hà Nội làm theo chỉ đạo của Nguyễn Đức Chung cho Công ty Nhật Cường vào làm thí điểm công tác số hóa (đang tổ chức mời thầu, bị dừng lại) để lấy lý do sửa đổi hồ sơ mời thầu, tạo lợi thế cho nhà thầu liên danh Nhật Cường - Đông Kinh trúng thầu. Cũng theo chỉ đạo của Nguyễn Đức Chung, lãnh đạo Sở KH-ĐT Hà Nội đã sửa đổi hồ sơ mời thầu, bổ sung thêm các tiêu chí đánh giá và có hành vi thông đồng, thỏa thuận với nhà thầu, tạo lợi thế cho nhà thầu liên danh Nhật Cường - Đông Kinh.
Lãnh đạo Sở KH-ĐT cũng cho Công ty Nhật Cường vào làm thí điểm, đưa thêm yêu cầu cập nhật công nghệ số hóa đã thực hiện trong quá trình thí điểm mặc dù kết quả thí điểm không đạt yêu cầu của Sở KH-ĐT, đưa thêm yêu cầu phải cập nhật hệ thống dữ liệu dùng chung thành phố trong khi thành phố chưa có hệ thống dùng chung để sửa đổi hồ sơ thầu, tạo lợi thế cho Liên danh Nhật Cường - Đông Kinh tham gia đấu thầu.
Nguyễn Đức Chung đã sử dụng quyền của Chủ tịch UBND TP đã can thiệp vào hoạt động đấu thầu, tạo điều kiện để Nhật Cường Software trúng nhiều gói thầu
Đáng chú ý, do có mối quan hệ quen biết với Bùi Quang Huy (Tổng Giám đốc Công ty Nhật Cường), được Bùi Quang Huy nhờ, ông Nguyễn Đức Chung đã sử dụng quyền của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội chỉ đạo Sở KH-ĐT chỉ định, dừng thực hiện gói thầu số hóa năm 2016 không đúng thẩm quyền, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu.
Các bị can Bùi Quang Huy, Lê Duy Tuấn đã gian lận trong việc lập Hợp đồng chứng minh khả năng, kinh nghiệm để hợp thức hóa hồ sơ năng lực tham gia dự thầu; Lê Duy Tuấn, Võ Việt Hùng thiết lập quân xanh, quân đỏ khi tham gia đấu thầu.
Đặc biệt, kết luận điều tra cũng nêu rõ ông Chung cũng đã để cho Công ty Minh Hoa do bà Nguyễn Thị Trúc Chi Hoa - vợ ông Chung làm giám đốc - ký kết hợp đồng với Công ty Nhật Cường. theo kết luận, tài liệu thu thập tại Công ty Minh Hoa, Cục Thuế Hà Nội, dữ liệu trích xuất từ hệ thống phần mềm ERP của Công ty Nhật Cường cùng lời khai của các bị can là nhân viên của Nhật Cường thể hiện "hợp đồng ký giữa công ty với Nhật Cường có dấu hiệu là hợp đồng khống".
Tuy nhiên bị can Bùi Quang Huy đang bỏ trốn, chưa ghi được lời khai nên chưa chứng minh, kết luận được ý thức chủ quan của bà Hoa trong việc ký hợp đồng là để giúp Huy hợp thức hồ sơ năng lực, tham gia đấu thầu. Vì vậy chưa đủ căn cứ xem xét, xử lý hình sự đối với hành vi của bà Nguyễn Thị Trúc Chi Hoa.
Hay như trong vụ án vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí, xảy ra tại UBND TP.Hà Nội, cũng cho thấy có bóng dáng “sân sau”, doanh nghiệp “thân hữu”.
Theo thông tin từ cơ quan điều tra, quá trình điều tra mở rộng vụ án xác định ông Nguyễn Đức Chung và ông Nguyễn Trường Giang đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, chỉ đạo Công ty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội mua chế phẩm Redoxy-3C của Công ty Watch Water - CHLB Đức qua Công ty TNHH thương mại dịch vụ Arktic để xử lý, duy trì chất lượng hồ trên địa bàn thành phố Hà Nội trái quy định, gây thiệt hại tài sản nhà nước.
Điều đáng nói là trong vụ án này, thời điểm mà Chủ tịch UBND TP.Hà Nội Nguyễn Đức Chung chỉ đạo mua hàng theo kiểu độc quyền, Công ty ARKTIC chỉ mới được 9 tháng tuổi và chưa có kinh nghiệm gì về xử lý ô nhiễm. Công ty Arktic do Ông Đào Xuân Tấn và ông Nguyễn Đức Hạnh (con trai ông Chung) thành lập vào tháng11-2015, địa chỉ số 12 Đặng Tiến Đông, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội (địa chỉ nhà riêng ông Nguyễn Đức Chung) trước khi được chuyển nhượng cho ông Nguyễn Trường Giang và bà Nguyễn Thị Bích Hằng tháng 7-2016.
Dấu hiệu đưa nhận hối lộ
Đáng chú ý, không chỉ dễ dàng nhận diện bóng dáng của những “sân sau”, doanh nghiệp thân hữu mà trong loạt các vụ án liên quan đế ông Chung còn cho thấy những dấu hiệu rõ ràng của hành vi “đưa - nhận” hối lộ. Cụ thể:
Trong vụ án "chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước" mà Nguyễn Đức Chung là chủ mưu cầm đầu, các đồng phạm là Phạm Quang Dũng, Nguyễn Anh Ngọc, Nguyễn Hoàng Trung cho thấy, quá trình điều tra cơ quan chức năng xác định vào dịp tết Nguyên đán Âm lịch Canh Tý, vào ngày 22.1.2020, tại khu vực Bệnh viện Bạch Mai, thông qua bị can Nguyễn Hoàng Trung, bị can Phạm Quang Dũng đã nhận của Nguyễn Đức Chung 1 phong bì trong đó có 10.000 USD. Bị can Dũng đã thông qua gia đình nộp lại số tiền này.
Tuy nhiên, theo cơ quan chức năng, do chưa có điều kiện làm rõ bản chất cho và nhận 10.000 USD này nên cơ quan điều tra đã tách vụ án này để xem xét, xử lý sau.
Hay trong vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Sở KH-ĐT Hà Nội và một số đơn vị liên quan, kết quả điều tra cũng chỉ ra rằng, quá trình tổ chức đấu thầu và thực hiện các hợp đồng, Bùi Quang Huy và Lê Duy Tuấn, đại diện Liên danh Nhật Cường - Đông Kinh đã chi biếu Nguyễn Văn Tứ 300 triệu đồng, Nguyễn Tiến Học 100 triệu đồng, Phạm Thị Kim Tuyến 30 triệu đồng.
Theo kết quả điều tra, bị can Lê Duy Tuấn, Giám đốc Kinh doanh Công ty Đông Kinh khai, sau khi việc trót lọt, Bùi Quang Huy đã chỉ đạo cho Tuấn đến “biếu quà” một số lãnh đạo của Sở KH&ĐT.
Cụ thể, bị can Nguyễn Văn Tứ (cựu Giám đốc Sở KH&ĐT Hà Nội) khai dịp Tết 2017, chính Bùi Quang Huy đã lên phòng làm việc và biếu tặng ông Tứ một chai rượu ngoại cùng 300 triệu đồng. Huy nói cho Tuấn biết đã biếu ông Tứ (thời điểm đó là Giám đốc Sở KH&ĐT Hà Nội) số tiền 500 triệu đồng, rồi phân công cho Tuấn biếu quà các cấp dưới.
Theo chỉ đạo của Huy, Tuấn biếu Nguyễn Tiến Học (cựu Phó Giám đốc Sở KH&ĐT Hà Nội) 100 triệu đồng, biếu Phạm Thị Kim Tuyến (cựu Trưởng phòng Đăng ký Kinh doanh) 30 triệu đồng và Phạm Thi Thu Hường (cựu Chánh Văn phòng Sở KH&ĐT Hà Nội) 5 chậu lan, tổng giá trị khoảng 25 triệu đồng…
Quá trình tố tụng, các bị can Tứ và Học hợp tác tích cực, chủ động khai báo và nộp lại số tiền thu lợi bất chính…
Ông Nguyễn Đức Chung đã chỉ đạo phải xử lý ô nhiễm bằng chất RedOxy-3C và mua độc quyền, không đấu thầu.
Những lỗ hổng pháp luật
Theo dõi những vụ án liên quan đến ông Nguyễn Đức Chung mới thấy pháp luật vẫn còn nhiều sơ hở.
Điển hình như pháp luật về đấu thầu hiện đang thiếu những quy định về cơ chế giám sát trong công tác đấu thầu, giám sát cơ quan quản lý thầu, nhà thầu… Trong vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Sở KH-ĐT Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung đã sử dụng quyền của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội chỉ đạo Sở KH-ĐT chỉ định, dừng thực hiện gói thầu số hóa năm 2016 không đúng thẩm quyền, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu tạo điều kiện để Nhật Cường Software (do ông Bùi Quang Huy – đang bị truy nã quốc tế, làm chủ) – một công ty non trẻ mới chỉ chính thức hoạt động từ năm 2016, có thể đường đường chính chính trúng các gói thầu công nghệ lớn của Hà Nội. Vậy nhưng không thấy động thái hoặc nếu có thì cũng rất yếu ớt của cơ quan chức năng trong việc “ tuýt còi” vụ việc.
Hay trong vụ án vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí, xảy ra tại UBND TP.Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung chỉ đạo Công ty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội mua chế phẩm Redoxy-3C của Công ty Watch Water - CHLB Đức qua Công ty TNHH thương mại dịch vụ Arktic để xử lý, duy trì chất lượng hồ ở Hà Nội.
Ngoài ra, dù pháp luật về đấu thầu đã có nhiều quy định nhằm hạn chế việc nhà thầu “bán thầu”. Nhưng, đâu đó vẫn tồn tại những quy định chưa chặt chẽ tạo điều kiện cho các đối tượng “ngụy trang” dưới các hình thức thầu chính, thầu phụ, liên doanh nhà thầu… những thực chất là cò mồi, thiết lập quân xanh, quân đỏ tham gia đấu thầu, bán thầu để kiếm hoa hồng. Đây chính là kẽ hở mà các đối tượng trong vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Sở KH-ĐT Hà Nội đã lợi dụng một cách triệt để nhất.
Cụ thể: Theo thỏa thuận liên danh Nhật Cường - Đông Kinh trong hồ sơ dự thầu nộp Sở KH&ĐT ghi: Nhật Cường đảm nhận 76%, Đông Kinh 24% khối lượng công việc. Nhưng sau khi 2 bên ký hợp đồng với Sở KH&ĐT, ngày 3/1/2017, Bùi Quang Huy và Võ Việt Hùng, Giám đốc Công ty Đông Kinh ký hợp đồng về việc mua, bán dịch vụ số hóa tài liệu hồ sơ ĐKDN trên địa bàn Hà Nội năm 2016 với phạm vi công việc và yêu cầu tính năng kỹ thuật của dịch vụ số hóa tài liệu hồ sơ ĐKDN giống hợp đồng giữa Sở KH&ĐT và Liên danh Nhật Cường- Đông Kinh nêu trên, trị giá hơn 29 tỷ đồng. Sau khi nhận hơn 42 tỷ đồng từ Sở KH&ĐT, Công ty Nhật Cường đã thanh toán cho Công ty Đông Kinh hơn 29 tỷ đồng.
Câu chuyện tương tự diễn ra ở gói thầu số hóa tài liệu hồ sơ đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội năm 2017. Theo thỏa thuận liên danh Nhật Cường - Đông Kinh trong hồ sơ dự thầu nộp Sở KH&ĐT, Nhật Cường đảm nhận 76% , Đông Kinh 24% khối lượng công việc. Nhưng sau khi 2 bên ký hợp đồng với Sở KH&ĐT, ngày 25/5/2018, Trần Ngọc Ánh, Phó TGĐ Công ty Nhật Cường và Võ Việt Hùng, Giám đốc Công ty Đông Kinh ký hợp đồng kinh tế về việc mua, bán dịch vụ số hóa tài liệu hồ sơ ĐKDN trên địa bàn Hà Nội năm 2017.
Sau khi nhận hơn 16 tỷ đồng từ Sở KH&ĐT, Công ty Nhật Cường đã chuyển khoản thanh toán cho Công ty Đông Kinh đủ số tiền theo giá trị nghiệm thu là hơn 10 tỷ đồng.
Kết luận điều tra cho rằng, dù Công ty Nhật Cường tham dự thầu, trúng thầu, ký hợp đồng với Sở KH&ĐT Hà Nội, nhưng sau khi ký 2 hợp đồng, Nhật Cường đều bán lại cho Công ty Đông Kinh, hưởng lợi bất chính hơn 19 tỷ đồng.
Kết mở
Các vụ án liên quan đến Nguyễn Đức Chung cho chúng ta thấy rõ tình trạng thông đồng móc ngoặc giữa các cán bộ, công chức với các đối tượng bên ngoài, giữa khu vực công và khu vực tư với các hình thức “bảo kê, sân sau”. Sự móc nối giữa hai khu vực trong và ngoài nhà nước tạo thành chu trình khép kín, lợi dụng các khe hở của cơ chế, chính sách để hoạt động phạm tội.
Và sẽ còn nguy hiểm hơn, nếu đi liền với sự móc nối, tiếp tay, bảo kê, sân sau là tình trạng tham nhũng, hối lộ…
Tin rằng, trong những vụ án liên quan đến Nguyễn Đức Chung và các vụ đại án kinh tế hình sự khác đang được điều tra, các cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ điều tra làm rõ hành vi đưa nhận hối lộ, để xử lý nghiêm minh theo quy định pháp luật.
Và dù các sai phạm chủ yếu tập trung vào yếu tố con người (cố ý làm trái, tha hóa, tư lợi), nhưng các cơ quan chức năng cần nhanh chóng hoàn thiện chính sách pháp luật về đầu tư, xây dựng, đấu thầu, pháp luật chi tiêu mua sắm công và các quy định pháp luật về kinh tế khác có liên quan … để lấp đi những lỗ hổng mà các đối tượng có thể lợi dụng để trục lợi.
Cuối cùng, một vấn đề rất quan trọng khác, tuy không mới, nhưng chúng tôi muốn tiếp tục nêu ra ở đây, đó là cơ chế kiểm soát quyền lực, đặc biệt là cơ chế kiểm soát quyền lực “ mềm “ của quan chức đang còn nhiều bất cập, nên thời gian qua không ít quan chức đã dùng quyền lực để qua mắt, áp đặt , lấn át tập thể , cố ý làm trái phục vụ mục đích và lợi ích riêng. Do đó, tới đây cần đặc biệt quan tâm việc hoàn thiện cho được cơ chế pháp luật nhằm kiểm soát quyền lực “ mềm” của quan chức. Chỉ như vậy, chúng ta mới có thể ngăn chặn được các vụ đại án tham nhũng.
Văn Chiến – Vũ Thuỷ
Những khuyến cáo đối với cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp Việt trong thực hiện cam kết về phòng, chống tham nhũng
(Pháp lý) - Do Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) không đề cập tới tất cả các khía cạnh, mà chỉ đề cập các cam kết của các nước liên quan tới các biện pháp nhằm loại trừ hối lộ và tham nhũng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi của Hiệp định, nên để phòng tránh trường hợp Việt Nam bị một quốc gia thành viên CPTPP khởi kiện vì vi phạm các nghĩa vụ của mình về phòng, chống tham nhũng, chuyên gia khuyến cáo điều quan trọng nhất vẫn là Chính phủ và các cơ quan khác thuộc bộ máy nhà nước cần tuân thủ, thực hiện đầy đủ, chính xác các quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống tham nhũng.
Xung quanh các nội dung trên, Phóng viên Tạp chí Pháp lý đã có cuộc trao đổi với Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Hà - Giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Ngoại thương.
Phóng viên: Thưa ông, thực hiện được yêu cầu, nghĩa vụ về phòng, chống tham nhũng trong CPTPP, chúng ta sẽ khắc phục được những tồn tại nào và đặt ra kỳ vọng gì trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng?
Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Hà: Trong thời gian vừa qua, có thể thấy công tác phòng, chống tham nhũng đã được Đảng và Nhà nước thực hiện rất quyết liệt và thu được nhiều kết quả tích cực. Nhìn tổng thể việc thực hiện các cam kết trong CPTPP của Việt Nam về phòng, chống tham nhũng là một quyết tâm rất cao của Việt Nam nhằm đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, hối lộ trong các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế.
Dù các quy định về phòng, chống tham nhũng của CPTPP mới chỉ gói gọn trong phạm vi các hoạt động thương mại, đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này, thì việc lần đầu tiên các quy định về phòng, chống tham nhũng được đưa vào một Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có sự tham gia của Việt Nam đã giúp Việt Nam khẳng định với các đối tác và bạn bè thế giới quyết tâm chính trị và cam kết ở mức độ cao của mình trong lĩnh vực này.
Thực hiện được các yêu cầu, nghĩa vụ về phòng, chống tham nhũng trong CPTPP, Việt Nam có thể có một số lợi ích và khắc phục được một số tồn tại như: Bổ sung thêm các cam kết quốc tế mạnh mẽ về phòng chống tham nhũng; Hoàn thiện pháp luật trong nước về phòng chống tham nhũng; Mở rộng phạm vi xử lý các hành vi tham nhũng, hối lộ; và Nâng cao hiệu quả công tác xử lý các hành vi tham nhũng.
[caption id="attachment_214656" align="aligncenter" width="273"] TS. Nguyễn Ngọc Hà, Giảng viên Đại học Ngoại thương Hà Nội[/caption]
CPTPP quy định rõ việc nhận hối lộ không nhất thiết phải là để mang lại lợi ích cho bản thân công chức mà cho cả các trường hợp lợi ích cho một chủ thể khác miễn là để đánh đổi lại việc công chức sẽ làm hoặc không làm một việc nào đó thuộc chức trách của mình. Theo ông, quy định trên có tác dụng như thế nào trong việc phòng, chống tham nhũng? Pháp luật hình sự và pháp luật phòng, chống tham nhũng của Việt Nam đã luật hóa quy định này chưa?
Thực ra đây không phải là một quy định mới của CPTPP, bởi vì nó đã được đưa vào Công ước của Liên Hiệp Quốc về phòng chống tham nhũng năm 2003 mà Việt Nam tham gia từ năm 2009. Trên cơ sở đó, Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 về tội nhận hối lộ đã nội luật hóa yêu cầu này bằng quy định người nhận hối lộ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi nhận lợi ích cho bản thân mình hoặc cho người, tổ chức khác. Điều này có nghĩa là một cán bộ, công chức khi nhận lợi ích không phải cho mình, nhưng cho người khác (ví dụ như cho vợ/chồng, bố/mẹ, con cái…) để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ đều có thể bị truy tố tội nhận hối lộ. Sự bổ sung này là cần thiết và có tác dụng giúp công tác đấu tranh, phòng, chống tham nhũng hiệu quả hơn; tạo điều kiện để các cơ quan tố tụng có thể xét xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và đặc biệt giúp khắc phục tình trạng lách luật để trốn tội.
Ngoài ra, CPTPP dành Điều 26.8 để đưa ra các quy định về tăng cường tính liêm khiết của công chức. Các quy định này không tạo nên nghĩa vụ đối với các quốc gia ký kết CPTPP. Tuy nhiên, nhiều biện pháp nhằm tăng cường tính liêm khiết của công chức mà Điều 26.8.1 của CPTPP nêu lên cũng đã được thể hiện trong Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 hay Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 29/11/2017 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng năm 2020. Do đó, để đảm bảo giúp Việt Nam thực hiện tốt các cam kết của mình về phòng, chống tham nhũng trong CPTPP, đứng từ góc độ cán bộ, công chức, viên chức, họ cần phải thực hiện đúng, đầy đủ và hiệu quả các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Do đó, có thể nói quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành đã tương thích với quy định của CPTPP ở điểm này và vì vậy, Việt Nam không cần phải nội luật hóa quy định của CPTPP nữa.
CPTPP đề cao tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân và xã hội vào các hoạt động/cơ chế phòng, chống tham nhũng. Để phát huy vai trò của các khu vực trên trong việc phòng, chống tham nhũng, ông có kiến nghị gì ?
Báo cáo Tổng kết 10 năm thực thi pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Chính phủ năm 2016 đã từng chỉ ra việc tham gia của khu vực tư và xã hội vào công tác phòng, chống tham nhũng vẫn còn hạn chế, với một số biểu hiện cụ thể như: một bộ phận doanh nghiệp, người dân chưa tham gia tích cực trong việc đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng; một số cơ quan truyền thông, cá nhân đã lợi dụng việc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng để trục lợi, vu khống. Do đó, nội dung về trách nhiệm xã hội trong phòng chống tham nhũng của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 cũng đã hàm chứa một số sửa đổi để làm rõ hơn nữa trách nhiệm của xã hội trong công tác phòng, chống tham nhũng. Ví dụ, Điều 75 của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định rõ cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng, đưa tin về hoạt động phòng chống tham nhũng, trong khi đây là vấn đề được khuyến khích theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005… Điều này cho thấy khung pháp luật về trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng hoàn thiện hơn, phù hợp với CPTPP. Công việc còn lại là làm sao để các quy định này được thực thi và thực thi tốt trong thực tiễn. Do đó, một số giải pháp mà Nhà nước cần chú trọng là: nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò và trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng; tạo điều kiện để phát huy vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng; nâng cao trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức trước những phản ánh có liên quan của doanh nghiệp, công dân…
[caption id="attachment_214657" align="aligncenter" width="410"] Việc tham gia của khu vực tư và xã hội vào công tác phòng chống tham nhũng vẫn còn hạn chế (ảnh minh họa)[/caption]
Từ những phân tích trên của ông cho thấy, về cơ bản các quy định pháp luật trong nước đã phù hợp với những cam kết của CPTPP về phòng, chống tham nhũng?
Đúng vậy. Có thể thấy các quy định của CPTPP về phòng, chống tham nhũng đã được nội luật hóa khá đầy đủ vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan của Việt Nam, trong đó có Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Do đó, hiện tại, Việt Nam chưa cần phải sửa đổi gì thêm hệ thống pháp luật trong nước nhằm thực thi các cam kết của mình trong CPTPP.
Để tránh gặp rắc rối trong quá trình thực hiện các cam kết về phòng, chống tham nhũng, ông có khuyến cáo gì đối với Chính phủ, các Bộ, ngành ?
Điều 28.12 của CPTPP về xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp cấp Chính phủ để giải quyết các tình huống một quốc gia thành viên CPTPP có một biện pháp không phù hợp với nghĩa vụ của quốc gia đó là về phòng, chống tham nhũng theo CPTPP (trừ Điều 26.9 về Áp dụng và thực thi pháp luật Chống tham nhũng). Do đó, để tránh trường hợp Việt Nam bị một quốc gia thành viên CPTPP khởi kiện vì vi phạm các nghĩa vụ của mình về phòng, chống tham nhũng, điều quan trọng nhất vẫn là Chính phủ và các cơ quan khác thuộc bộ máy nhà nước cần tuân thủ và thực hiện đầy đủ, chính xác các quy định của pháp luật Việt Nam về phòng chống tham nhũng.
CPTPP có những cam kết yêu cầu xử lý hình sự rất nghiêm khắc đối với doanh nghiệp, do vậy để chủ động bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của mình trong quá trình hoạt động đầu tư kinh doanh, doanh nghiệp cần chú ý tới những vấn đề gì, thưa ông?
Lời khuyên cho doanh nghiệp Việt Nam, cũng giống như đối với cơ quan nhà nước, là cần tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật khi thực hiện các hoạt động thương mại và đầu tư. Không thực hiện các hành vi tham nhũng, kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, các hành vi tham nhũng từ phía các chủ thể công là các hành động cần thiết để doanh nghiệp bảo vệ mình trước các biện pháp xử lý mạnh tay của CPTPP hay của pháp luật Việt Nam và các quốc gia khác trong CPTPP về tham nhũng.
Các cam kết trong CPTPP về chống tham nhũng bao gồm các nhóm sau: Các cam kết liên quan tới các Công ước quốc tế về chống tham nhũng. Các nước CPTPP cam kết gia nhập Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 và khẳng định tuân thủ Bộ Quy tắc ứng xử của APEC dành cho Công chức năm 2007.
Ngoài ra, CPTPP yêu cầu các nước Thành viên phải xử lý hình sự đối với các hành vi hối lộ công chức, hành vi đòi hoặc nhận hối lộ của công chức, kể cả công chức nước ngoài hay công chức của tổ chức quốc tế. CPTPP cũng yêu cầu xử lý hình sự đối với các hành vi xúi giục, hỗ trợ, câu kết để thực hiện các hành vi hối lộ/nhận hối lộ này.
Bên cạnh các cam kết về các nghĩa vụ cụ thể liên quan tới hành vi hối lộ, tham nhũng, CPTPP còn bao gồm các cam kết mang tính khuyến nghị về việc hạn chế cơ hội tham nhũng (ví dụ cam kết nỗ lực nâng cao minh bạch trong tuyển dụng, đào tạo công chức, các quy tắc giúp loại trừ các trường hợp có mâu thuẫn về lợi ích, các yêu cầu báo cáo hoặc công khai tài sản…) và tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân và xã hội vào các hoạt động/cơ chế phòng, chống tham nhũng.
Nguyễn Hòa (thực hiện)