Tiếp tục rà soát, hoàn thiện nhiều chế định quan trọng trong Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi)

(Pháp lý) - Chiều 23/11, Quốc hội thảo luận, cho ý kiến về dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Đáng chú ý, tại phiên thảo luận, nhiều chế định quan trọng như: các quy định ngăn chặn sở hữu chéo, hạn chế thao túng, chi phối các ngân hàng cũng như các biện pháp can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt các ngân hàng… được các ĐBQH đặc biệt quan tâm, cho ý kiến và đề nghị tiếp tục rà soát, hoàn thiện.

Quốc hội thảo luận, cho ý kiến về dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi)

Nhiều nội dung lớn đã được tiếp thu, chỉnh lý

Trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) do Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, so với dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ Năm, nhiều nội dung đã được các cơ quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý tại dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp lần này.

Cụ thể, dự thảo đã bổ sung 1 Chương về Ngân hàng chính sách với 11 điều. Đồng thời, để tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, điều kiện thuận lợi cho hoạt động và quá trình phát triển của ngân hàng chính sách, UBTVQH đề nghị Chính phủ nghiên cứu xây dựng Luật riêng về ngân hàng chính sách.

Trên cơ sở đề xuất của Chính phủ tại Báo cáo số 612/BC-CP, đã chỉnh lý quy định liên quan đến hạn chế thao túng, chi phối TCTD, trong đó điều chỉnh quy định về người có liên quan phù hợp với loại hình quỹ tín dụng nhân dân; điều chỉnh tỷ lệ sở hữu cổ phần với cổ đông cá nhân là 5% (thay vì 3% như dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5) và quy định lộ trình giảm dần giới hạn cấp tín dụng xuống 10% vốn tự có đối với một khách hàng và 15% vốn tự có đối với khách hàng và người có liên quan trong 5 năm nhằm giảm thiểu tác động.

Dự thảo bổ sung, hoàn thiện nhiều nội dung liên quan đến tài chính, hạch toán, báo cáo của TCTD như: khái niệm về vốn điều lệ; doanh thu và nguyên tắc ghi nhận doanh thu từ hoạt động cấp tín dụng, chi phí và nguyên tắc ghi nhận chi phí, phân phối lợi nhuận và các quỹ (trong đó bổ sung quy định về tăng vốn điều lệ cho ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ)…

Đối với Dự phòng rủi ro (Khoản 2 Điều 147), tiếp thu ý kiến ĐBQH chỉnh lý thành: “Việc phân loại tài sản có, mức trích lập dự phòng rủi ro, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động do Chính phủ quy định”, thay vì Thống đốc NHNN quy định như dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5.

Bên cạnh đó, tiếp thu ý kiến của Kiểm toán Nhà nước, dự thảo đã bỏ quy định liên quan đến trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước tại khoản 1 Điều 168 của dự thảo Luật để phù hợp với quy định của Luật Kiểm toán Nhà nước.

 Ngoài các nội dung nêu trên, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã bổ sung, chỉnh lý nhiều quy định như: Thư tín dụng; Thẩm quyền cấp, sửa đổi, bổ sung và thu hồi Giấy phép; Tiêu chuẩn, điều kiện đối với người quản lý, người điều hành và một số chức danh khác của TCTD; Những trường hợp không cùng đảm nhiệm chức vụ; Công khai, công bố thông tin; Xét duyệt cấp tín dụng, kiểm tra sử dụng tiền vay; Các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng thương mại; Khái niệm và hoạt động của TCTD phi ngân hàng; Xây dựng phương án khắc phục dự kiến trong trường hợp được can thiệp sớm…

Đồng thời, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng không quy định trách nhiệm của Bộ Công an tại Điều 188; bỏ nội dung “lệ phí trước bạ” tại Điều 191 về thứ tự ưu tiên thanh toán; sửa đổi quy định chuyển tiếp tại Điều 202. Trong đó, bổ sung tại khoản 10 Điều 202 quy định chuyển tiếp đối với tỷ lệ sở hữu cổ phần của một cổ đông lớn, một cổ đông và người có liên quan tại ngân hàng thương mại thực hiện nhiệm vụ phục vụ quốc phòng.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo

Một số vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau

Về các vấn đề còn ý kiến khác nhau, theo ông Thanh là các quy định về can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt, cho vay đặc biệt đối với các ngân hàng…

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cho biết, quá trình thảo luận, một số ý kiến cho rằng các quy định can thiệp sớm nêu tại dự thảo luật là vẫn chậm, cần nghiên cứu sửa kỹ lưỡng.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo luật chỉnh lý theo hướng can thiệp sớm hơn, khi tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài lỗ lũy kế hơn 15% giá trị của vốn điều lệ, vốn được cấp và quỹ dự trữ sẽ được cơ quan quản lý có phương án can thiệp. Tỷ lệ này giảm 5% so với bản thảo trình hồi tháng 6.

Đối với việc can thiệp sớm trong trường hợp lỗ lũy kế và rút tiền hàng loạt được thiết kế 2 phương án tại dự thảo luật.

Theo đó, phương án 1, giữ quy định ngân hàng được can thiệp sớm chỉ căn cứ vào lỗ lũy kế là 15%, không kết hợp thêm các điều kiện khác để tránh trường hợp các tổ chức này có thể có lỗ lũy kế cao nhưng không được cảnh báo, xử lý kịp thời.

Đồng thời, bỏ trường hợp rút tiền hàng loạt do đây là trường hợp nhiều người gửi tiền cùng rút tiền, dẫn đến ngân hàng mất khả năng chi trả hoặc có nguy cơ mất khả năng chi trả, thuộc trường hợp được xem xét đặt vào kiểm soát đặc biệt theo luật hiện hành. Cạnh đó, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định phù hợp với tổ chức tín dụng phi ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô.

Phương án 2, theo ông Thanh, kết hợp tiêu chí lỗ lũy kế và tiêu chí vi phạm tỷ lệ bảo đảm an toàn, vì có một số trường hợp ngân hàng có lỗ lũy kế lớn hơn 15% giá trị vốn điều lệ, vốn được cấp nhưng tổ chức tín dụng này đã khắc phục được nguyên nhân dẫn đến lỗ (như tăng vốn, giảm đầu tư) và bảo đảm tỷ lệ bảo đảm an toàn; giữ quy định về rút tiền hàng loạt.

Về các biện pháp kiểm soát đặc biệt ngân hàng cũng được thiết kế 2 phương án. Phương án 1, ngân hàng được đặt ngay vào diện bị kiểm soát đặc biệt khi có lỗ lũy kế lớn hơn 100% giá trị của vốn điều lệ và quỹ dự trữ; hết thời hạn thực hiện phương án khắc phục mà ngân hàng không khắc phục được tình trạng cần can thiệp sớm hoặc Ngân hàng Nhà nước xét thấy tổ chức tín dụng được can thiệp sớm không có khả năng phục hồi theo phương án khắc phục; tổ chức tín dụng bị giải thể không có khả năng thanh toán đầy đủ các khoản nợ trong quá trình thanh lý tài sản.

Cạnh đó, cơ quan quản lý xem xét, quyết định đặt vào kiểm soát đặc biệt với trường hợp mất, có nguy cơ mất khả năng chi trả hoặc mất, có nguy cơ mất khả năng thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 50% giá trị của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ; không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn trong thời gian 12 tháng liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn thấp hơn 4% trong thời gian 6 tháng liên tục; xếp hạng yếu kém trong 2 năm liên tục. Ngân hàng bị rút tiền hàng loạt.

Phương án 2, theo ông Thanh là giữ quy định Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định các trường hợp đặt vào kiểm soát đặc biệt. Trong đó có trường hợp ngân hàng bị rút tiền hàng loạt và có lỗ lũy kế lớn hơn 100% giá trị của vốn điều lệ và quỹ dự trữ sẽ bị áp dụng các biện pháp kiểm soát đặc biệt để xử lý những vấn đề phát sinh chưa có quy định hoặc phải áp dụng biện pháp cần thiết khác mà chưa dự liệu được ở thời điểm hiện tại để đảm bảo an toàn hệ thống…

Có giải pháp kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn cho vay doanh nghiệp “sân sau”

Thảo luận tại hội trường, đa số ĐBQH tán thành với Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi); cho rằng, dự thảo Luật đã quy định cơ bản đủ các nội dung về thành lập, tổ chức, hoạt động, tổ chức lại, giải thể, phá sản các tổ chức tín dụng; việc thành lập, tổ chức, hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài…

Đây là luật có tính chuyên sâu, phức tạp, ảnh hưởng sâu rộng đến các hoạt động kinh tế - xã hội, có tác động đến nhiều đối tượng và tác động trực tiếp đến chính sách tài chính, tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô cũng như liên quan đến pháp luật quốc tế, thông lệ quốc tế và liên quan đến nhiều Luật khác như: Bộ luật Dân sự, Luật Thi hành án Dân sự, Luật Doanh nghiệp…

Do đó các đại biểu đề nghị, cần tiếp tục rà soát các quy định trong dự thảo Luật để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, tránh sự chồng chéo với các luật khác sẽ gây nhiều tác động xấu, nhất là đối với an ninh, an toàn hệ thống ngân hàng và hoạt động kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu có các chế tài đủ mạnh để răn đe đối với các trường hợp vi phạm; gắn trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên quan để bảo đảm các quy định được chấp hành nghiêm.